Những tên đặc công đỏ trong phong trào Dân chủ ở VN

Những tên đặc công đỏ trong 
phong trào đòi hỏi Dân chủ cho VN 

(Việt Thường–Nam Nhân–Lý Tuấn)


Phần 1
Bùi Tín:Tên đặc công mở đường thâm nhập
Cộng đồng người Việt Tỵ nạn cộng sản









Thưa ông Bùi Tín,

Nhân dịp đầu Xuân Quý Mùi (2003), ông cho công bố "Một phương án đổi mới trình đồng bào cả nước". Và, ông kêu gọi mọi người tham gia thảo luận, góp ý.

Ghi nhận lời nhắc nhở của ông là: "dám suy luận bằng cái đầu tỉnh táo của mình, hoài nghi một số định lý, chân lý, tín điều cũ, dám nói to điều mình cho là đúng, khi cần dám cưỡng lại số đông.”


* Trên tinh thần ấy, chúng tôi xin chân thành thảo luận và đóng góp ý kiến với ông, hy vọng sẽ đưa ra công luận những sự thật của lịch sử Việt Nam đương đại.

* Trước hết, chúng tôi xin hoan nghênh ông đã tuyên bố từ bỏ 9 huân chương kháng chiến, quân công, chiến công, chiến sỹ vẻ vang đã được khen thưởng trong suốt chiều dài 47 năm tận tụy phục vụ cho đảng cộng sản Việt Nam. Chính hành động này của ông đã khiến chúng tôi chấp nhận đối thoại với ông lần đầu tiên nhân dịp Xuân Quý Mùi này (2003). Tuy nhiên cũng xin lưu ý đến ông rằng, ở Hoa xuyên tuyết (XB Nhân quyền – 1991), trang 195, ông khoe được thưởng 16 (mười sáu) cái. Vậy còn 7 (bảy) cái ông giữ lại để làm gì???

Tại sao phải đến tận bây giờ chúng tôi mới chấp nhận đối thoại? Thưa ông, chính do nội dung 2 cuốn sách "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" của ông đã khiến chúng tôi nhận ra rằng: chỗ đứng của chúng ta trong xã hội Việt Nam khác nhau về căn bản nên phương pháp tiếp cận sự thật, mô tả sự thật của chúng ta hoàn toàn ngược nhau. Và, ông viết bậy hơn là viết thật! Đồng thời nên nhớ rằng:

Chỗ đứng của ông là chỗ đứng của kẻ cai trị.
Chỗ đứng của chúng tôi là chỗ đứng của người bị trị, của người chống xâm lược.

 
Yêu nước hay bán nước?
[Tên việt gian CS Bùi Tín]
Trong hai cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật", ông đã trưng dẫn rất nhiều hình ảnh sống động, bằng cả số liệu để chứng minh cho những tội ác mà Hồ chí Minh và tập đoàn nắm quyền trong đảng cộng sản Việt Nam gây ra cho nhân dân và đất nước Việt Nam cho đến tận giờ phút này, đều bắt nguồn từ việc sao chép, áp đặt cái gọi là chủ nghĩa Stalin của Nga-xô và tư tưởng Mao trạch Đông của Tàu cộng. Đã có lúc ông tiệm cận được chân lý khi ghi nhận câu nói của một nhà báo Mỹ (ông không ghi rõ tên) gặp ông ở Sài-gòn khoảng 1976-1977, rằng: "Các ông đã thắng trong chiến tranh, nhưng đã không thắng được trong hòa bình, các ông không chinh phục cũng không giải phóng được miền Nam, các ông xử sự như những đội quân chiếm đóng"(1). Và, ông nhận xét câu nói đó "thật là sâu sắc", có nghĩa ông nhận thấy cách hành xử của giới chức cộng sản cầm quyền và quân lính của tướng Trần Độ tôi luyện là những tên xâm lược. Đó là khía cạnh nhạy bén của một nhà báo kỳ cựu và được tiếp xúc với bên ngoài nhiều, nhưng vì chỗ đứng là "đảng viên cộng sản ở vị trí có quyền" nên ông mượn lời một nhà báo Mỹ khuyết danh để che đậy cái thế éo le của ông: người thức thời trong hàng ngũ lũ bán nước!

Dám nhìn vào cuộc sống thật của nhân dân Việt Nam, nhưng ông lại phải làm cái việc bảo vệ chỗ đứng của ông, bảo vệ cái tổ chức mà ông đã đầu tư toàn bộ niềm tin, tuổi trẻ; cả mồ hôi và máu, cho nên ông đã chân thật viết rằng: "Trên tinh thần ấy, tôi không thể quay ngoắt lại chửi bới đảng cộng sản, nói xấu đủ điều, phóng đại những sai lầm và tự phủ định chính mình về tất cả mọi mặt."(2)

Cái thế éo le đó của ông đã khiến ông luôn luôn mô tả thì tương đối chân thật, nhưng kết luận thì tránh né cốt lõi của sự thật – nghĩa là viết bậy!!!

Hai cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" của ông được viết ra sau khi cả Nga-xô và khối chư hầu Đông-âu của nó đổ kềnh. Nhiều tài liệu phong phú đã bổ xung cho việc vạch trần những tội ác trời sầu đất thảm của tập đoàn cai trị ở các nước gọi là "phe xã hội chủ nghĩa". Những người làm cái việc vạch trần các tội ác đó, phần lớn đều sống trong "địa ngục xã hội chủ nghĩa", và cũng hầu hết đều ở cái thế éo le như ông. Nghĩa là, một tay thì vạch sự thật, còn tay kia tự che mắt không dám thấy tay mình cũng có máu. Vì thế cách lập luận cứ vòng vo tam quốc, trình bày theo lối hàn lâm, kinh viện, tránh né nói toạc móng heo cho dễ hiểu.

Thí dụ: Lê-nin là cha đẻ của chủ nghĩa thực dân đỏ thì lại gọi là chủ nghĩa Lê-nin. Lê-nin mượn chủ nghĩa Marx làm bộ áo cà-sa để che đậy bộ mặt bành trướng bá quyền. Vì thế nên ngay lúc Nga-xô còn bao khó khăn, Lê-nin phải ký hiệp ước để các nước vùng Baltique và Ukraine chịu ảnh hưởng của Đức, thì từ đầu những năm 1920 đã cho lệnh tiến quân đánh chiếm Ngoại-mông (nay là nước Mông cổ), đặt thành thuộc quốc trên thực tế, còn về danh xưng thì màu mè gọi là "nước bạn". Rồi lại đẻ ra cái gọi là "Quốc tế 3" với luận điểm ủng hộ sự giải phóng của các thuộc địa (ra khỏi chủ nghĩa thực dân "xanh") mà thực chất đó là công cụ của Nga-xô nhằm tuyển mộ, đào tạo người của các nước, nắm chặt cả thân xác lẫn linh hồn của họ, biến họ thành tay sai, trở về tổ chức chống "thực dân xanh" để rồi tự nguyện làm nô lệ cho thực dân đỏ (là chế độ được đội tên là "Liên bang xô viết).

Mao trạch Đông của Tàu cộng thấy được âm mưu đó của Nga-xô, cho nên cũng dùng cái áo "chủ nghĩa Marx-Lê-nin" để chống lại Nga-xô và cũng muốn giành quyền độc tôn trong chủ nghĩa thực dân đỏ mà thôi.

Chẳng làm gì có cái gọi là "chủ nghĩa giáo điều (hay phần tử giáo điều)". Nếu nhìn vào hành động thực tế thì cả Lê-nin và cả Mao đều là "xét lại" so với chủ nghĩa Marx. Lê-nin đã nói và làm ngược với Marx là "cách mạng có thể thành công ở một nước"; còn Mao thì dựa vào nông dân chứ không dựa vào công nhân, và lấy "nông thôn bao vây thành thị". Vậy họ "giáo điều" ở chỗ nào?

Vì thế, nên những mục tiêu của chủ nghĩa Marx lại chỉ xuất hiện ở các nước "tư bản, đế quốc", như về năng suất lao động, về phúc lợi xã hội, nhân quyền, tự do, dân chủ v.v. Còn ở các nước lấy chủ nghĩa Marx-Lê-nin làm kim chỉ nam thì hoàn toàn ngược lại. Cũng may là nhờ ăn, ở trong nước tư bản, nghiên cứu, sáng tạo và phổ biến trong điều kiện của nước tư bản mà các tác phẩm của Marx được quảng bá, và Marx chết cũng trong yên lành. Chứ giả dụ: nếu Marx ở một trong bất cứ nước nào với mô hình "xã hội chủ nghĩa" thì chắc chắn Marx sẽ được đưa vào "tầng đầu của địa ngục", hoặc bị nghiền nát ở "Quãng trường Thiên an môn", hoặc đập đá ở trại giam Đầm Đùn của Hồ chí Minh cho đến chết rồi!!!

Những thông tin trong hai cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" của ông chỉ rất phong phú với người chưa sống qua hoặc sống mà không có điều kiện hoặc không đặt mục tiêu nghiên cứu về cuộc sống của người dân dưới cái gọi là "chế độ xã hội chủ nghĩa". Còn với người đã có ít nhiều kinh nghiệm về sự cai trị của tập đoàn Hồ chí Minh và những kẻ nối nghiệp hắn thì còn hời hợt, còn nhiều chỗ sai và nhiều mâu thuẫn, quanh co.
Như chúng tôi đã nhận xét, rằng chỗ đứng của ông là của kẻ cai trị, mà lại là kẻ cai trị trong tổ chức cộng sản, nên nó vẫn đậm màu sắc ban ơn, kẻ cả và mâu thuẫn. Thí dụ, ngay những trang đầu của "Hoa xuyên tuyết", ông đã viết: "Các bạn trẻ là tương lai của đất nước. Hãy tìm hiểu quá khứ và hiện tại, cố lý giải cho minh bạch mọi vấn đề và từ đó bắt tay xây dựng tương lai gần và xa. Các bạn hãy coi đây là lời tâm sự, là lời tâm huyết của một người đi trước nhận tội lỗi của thế hệ mình, của chính mình trước thế hệ trẻ thân yêu và tin cậy."(3)

Trong đoạn văn nêu trên, ông kêu gọi "hãy tìm hiểu quá khứ và hiện tại", nhưng rồi ông lại cũng ủng hộ hết mình lập luận kêu gọi: "quên quá khứ". Thậm chí ông còn đi xa hơn khi viết: "không nhắc đến những người đã quá cố vì họ không có khả năng tự bảo vệ nếu họ bị lên án". (4)(!!!???)

Và, y hệt giới chức có quyền của cộng sản, luôn luôn tự cho phép thay mặt mọi người mà chẳng hề hỏi ý kiến ai. Cao và xa thì như việc bảy (7) tên cộng sản Việt Nam dám thay mặt cả nhân dân Lào và Cam-bốt, để theo lệnh của Quốc tế 3 (Nga-xô) thành lập "đảng cộng sản Đông dương"; gần thì Hồ chí Minh và cái dúm tay chân của hắn "tự cho phép thay mặt nhân dân Việt Nam" để xây dựng cái gọi là chủ nghĩa xã hội; để dâng đất, dâng biển cho Tàu cộng; dâng cảng Cam-ranh cho Nga-xô v.v. Ông cũng thế, ông Bùi Tín ạ! Làm sao ông có thể và có quyền thay mặt cho thế hệ của ông để nhận tội với thế hệ trẻ?(!)

Trong thế hệ của ông, số như ông là bao nhiêu? Ngay từ 1945, những người của đảng Đại Việt đã thấy cái chất yêu tinh trong lốt người của Hồ chí Minh; rồi tiếp đến là Đức cha Lê Hữu Từ cùng với giáo dân, nhất là ở địa phận Bùi Chu và Phát Diệm; rồi các người theo các giáo phái Cao-đài, Hòa-hảo v.v… cho nên mới có chuyện "bất hợp tác" với Hồ. Từ sau các phong trào do Hồ chí Minh phát động như "đấu tranh chính trị", "rèn cán chỉnh quân" và sự công khai trở lại cái công cụ bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ (tức chủ nghĩa Lê-nin – Stalin) là đảng cộng sản Đông dương, phân thân làm ba (3) cho dễ biến hóa, mà cái phần ở Việt Nam gọi là "đảng Lao động VN", thì những người ở thế hệ của ông đã ào ào tụ họp lại thành lực lượng chống sự xâm lược của thực dân đỏ. Lúc đó, chưa có điều kiện, chưa có nhiều dữ kiện cụ thể để chứng minh được cuộc chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp đã bị Hồ chí Minh lèo lái thành cuộc chiến dùng người Việt Nam chết cho chủ nghĩa thực dân đỏ Nga-xô, tranh giành thuộc địa với thực dân Pháp. Cho nên người ta đã mơ hồ gọi là cuộc chiến quốc – cộng, hoặc có khi gọi là chiến tranh ý thức hệ, để sau này còn lầm lẫn nặng hơn khi gọi đó là cuộc chiến huynh – đệ!!! Đây là cuộc chiến giữa nhân dân Việt Nam chống những tên Việt gian, lính đánh thuê cho thực dân đỏ Nga-xô, Tàu cộng. Nghĩa là chống thực dân đỏ xâm lược.

Ông đã kinh ngạc khi kể lại những chuyện Hồ chí Minh bị Stalin và Mao coi thường như thế nào; Hồ và lũ cán bộ cộng sản của Hồ đã răm rắp tuân theo một cách ngoan ngoãn những lệnh của Stalin, những ý kiến của cố vấn Tàu do Mao phái sang. Ông đã tả rất sinh động cảnh các cố vấn Tàu cộng ngồi gác hai chân lên bàn, nhổ nước miếng ồn ào rất là Tàu và ra mọi mệnh lệnh, và từ Hồ cho đến Trường Chinh, Hoàng quốc Việt v.v… kính cẩn chấp hành.

Ông là người đọc nhiều, đi nhiều, gặp gỡ nhiều, xin hỏi ông có thấy trong lịch sử Việt Nam và các nước trên thế giới (ngoại trừ các nước chư hầu cộng sản của Nga-xô và Tàu cộng) có chuyện như vậy xảy ra không? Chắc chắn là không. Còn nếu có thì chỉ xảy ra giữa mẫu quốc và thuộc địa; giữa khâm sai thiên triều với lũ tay sai bán nước mà thôi!

Chính vì chỗ đứng của ông ngược với chúng tôi, nên tuy có thức thời nhìn ra những cảnh trên, nhưng vì không dám "tự phủ định chính mình" (như ông viết), nên ông bào chữa cho bộ mặt bán nước của Hồ và chân tay kế cận là bị ảnh hưởng của Stalin-nít và Mao-ít!!!

Ông thử trích xem trong "chủ nghĩa Stalin" và "chủ nghĩa Mao" có chỗ nào qui định cho "cố vấn" ngồi gác hai chân lên bàn, khạc nhổ bừa bãi và ra lệnh cho "chủ tịch nước", "tổng bí thư đảng" v.v… và tất cả phải chấp hành không dám bàn cãi, dù phải rất tàn bạo đối với cả ân nhân của mình, như cái chết của bà Nguyễn thị Năm (tức Cát thành Long) là một ví dụ.

Vì không dám nhìn vào cái sự thật của những hành động và thái độ Việt gian đó của tập đoàn Hồ chí Minh nên ông đã viết sai với sự thật rằng: "tôi ở trong quân đội do đảng cộng sản tổ chức và lãnh đạo từ tháng 9-1945 đến 10-1982” (5).

Vào thời điểm 1945, ngay tại Pháp, trong chính phủ của tướng Đờ-Gôn có sự tham gia của Mô-rít Thô-rê, là chủ tịch đảng cộng sản Pháp, thế mà Hồ lại phải giải tán đảng cộng sản Đông dương? Trong khi các đảng khác như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội tham gia Chính phủ Liên hiệp, đâu cần phải giấu mặt như Hồ và bè lũ. Tại sao vậy? Bởi vì nhân dân Việt Nam ghê tởm bàn tay máu của cộng sản từ cái gọi là Xô-viết Nghệ-tĩnh, và Hồ còn muốn cố che cái công cụ bành trướng của thực dân đỏ khỏi bị chú ý đến.

Mong ông hãy tham khảo lại "Biên niên tiểu sử của Hồ" (có trong cái gọi là "Bảo tàng cách mạng") để thấy rằng thời kỳ đầu ra đời của lực lượng vũ trang là do sự hợp nhất các lực lượng vũ trang của các đảng phái, có cả bảo an binh của Chính phủ Trần Trọng Kim để lại. Cụ Vũ Hồng Khanh (VNQDĐ) là bộ trưởng quốc phòng; giáo sư Tạ quang Bửu (khi đó chưa là cộng sản) giữ chức thứ trưởng và các cán bộ khung là Hoàng đạo Thúy (huynh truởng hướng đạo) làm chính trị vụ trưởng; bác sỹ Vũ văn Cẩn (nhân sỹ yêu nước) làm y tế vụ trưởng, và Vũ Anh (Việt minh) làm chế tạo vụ trưởng. Lực lượng vũ trang được gọi là quân đội quốc gia, được đặt dưới sự lãnh đạo của Chính phủ Liên hiệp, chứ không phải của đảng cộng sản!

Trong cái lực lượng quân đội đó, nhân sự là cộng sản hồi ấy chỉ có một nhúm rất nhỏ mà cũng chẳng dám công khai nhận mình là cộng sản. Số lớn những người có tài là từ lực lượng vũ trang của VNQDĐ như các tướng Nguyễn Bình, Nguyễn văn An v.v. Một số khác từ lò lính Pháp mà ra, rồi vào lực lượng bảo an binh, như Lê trọng Tấn, Bằng Giang, Lô Giang. Số khác là từ học sinh, sinh viên như các tướng Vũ Lăng, các đại tá Lê minh Nghĩa, trung tá Nguyễn sanh Thí. Thậm chí cả những người được đeo lon cấp tá như Nguyễn đình Thi, Đỗ Nhuận, Trần Dần, Hoàng Cầm, Cao kim Điển, Quang Dũng v.v. cũng chẳng biết cộng sản là cái quái gì khi gia nhập quân đội. Và, chính ông cũng thế. Phải chờ đến sau khi Mao làm chủ lục địa, quân đội Quốc gia Việt Nam bị Hồ, nhân danh Chính phủ Liên hiệp, đưa qua Tàu làm cái việc tẩy não, rèn cán chỉnh quân, dụ khị, cưỡng bức mọi người gia nhập cộng sản, biến cái chính nghĩa của Quân đội Quốc gia trong nhiệm vụ giải phóng Tổ quốc và dân tộc khỏi ách thực dân Pháp thành ngụy quân và cái danh xưng Quân đội Quốc gia bị đánh tráo thành "quân đội nhân dân" hay "bộ đội cụ Hồ"(!!!), công cụ của thực dân đỏ, để tranh giành thuộc địa với thực dân Pháp trên toàn cõi Đông-dương.

Cho nên cái lực lượng vũ trang mà ông tham gia thoạt kỳ thủy không phải do "đảng cộng sản tổ chức và lãnh đạo" như ông đã viết. Vì thời kỳ đó về công khai làm gì có đảng cộng sản!!! Huấn luyện viên của các trường quân chính hầu hết không ai là cộng sản mà là hàng binh Nhật trốn ở lại; là cai, đội người Việt trong lính của Pháp cũ; là lực lượng bảo an binh của chính phủ Trần Trọng Kim để lại v.v. Quân đội đó từ lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam mà ra, theo lời kêu gọi của Chính phủ Liên hiệp.

Ngay Trần Độ, trong hồi ký viết lần đầu, do Nhà xuất bản Thanh niên in năm 1957, có kể rằng: cuối 1944, Trần Độ là bảo vệ của Trường Chinh, được Trường Chinh trao cho một khẩu súng lục Browning và 2 viên đạn. Trần Độ giữ súng đạn mà vẫn chưa biết sử dụng. Một hôm đi qua Nghĩa đô thuộc huyện Từ liêm (Hà-nội), bị trương tuần của làng vây bắt. Trần Độ rút súng ra, tuy không có đạn nhưng trương tuần không biết nên sợ hãi bỏ cho Trần Độ đi thoát. Sang giữa năm 1946, Trần Độ được đưa về trung đoàn Thủ đô, cũng vẫn chưa biết gì về súng. Đơn vị có khẩu trung liên của lính người Việt trong đơn vị lính Pháp lấy mang về. Anh em thấy Trần Độ do trên phái tới, tưởng giỏi lắm, nhờ Trần Độ chỉ dẫn. Trần Độ có biết gì đâu, nhưng láu vặt, không thực thà nói rằng không biết mà giả vờ lệnh cho người lính Việt Nam đã ở trong binh lính của Pháp ra tháo và lắp khẩu súng cho anh em xem, nhân đó Trần Độ cũng học mót.

Quyển hồi ký đó của Trần Độ ra lò cùng thời cuốn "ký sự Điện biên", năm 1957, chắc chắn còn lưu giữ trong thư viện Quốc gia (phố Tràng thi, Hà-nội). Nếu ông chưa từng đọc qua, có thể e-mail về Việt Nam, nhờ ai đó đọc hộ. Từ đó để thấy, sau 45 năm, tưởng thiên hạ quên hết chuyện cũ, nên trung tướng cộng sản Trần Độ đã tự ý sửa lại hồi ký của mình, năm 1957, để từ bảo vệ (tức lính hầu) của Trường Chinh, thành "được đảng phân công giúp việc cho tổng bí thư Trường Chinh"(6) (Đúng là Cuội nên là tướng "chính ủy" có khác!!!)

Tiếp theo là các chính sách Việt gian nữa của Hồ đã khiến nhân dân Việt Nam chia làm hai khối. Một do Hồ cầm đầu quyết từng bước nhuộm đỏ toàn Đồng dương, biến Đông dương thành thuộc địa kiểu mới cho Nga-xô như Hồ đã nhận lệnh từ 1930, khi lập ra đảng cộng sản Đông dương. Khối còn lại là những người Việt Nam quyết bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam. Chính dã tâm của Hồ đã khiến năm 1954 Việt Nam tạm bị chia cắt làm hai miền qua hiệp định Genève về Việt Nam.

Ngay khi thi hành hiệp định Genève 1954 về Việt Nam, bọn Hồ đã có dã tâm vi phạm. Chính ông đã kể lại lời Lê Duẩn rằng: "Tôi nghĩ ngay đến bạo lực. Tôi bảo anh em chôn súng. Tôi bàn với anh em để lại lực lượng ở miền Nam không tập kết hết cả đâu nhé." (7) Và ông cũng có nói đến nghị quyết 15 (khóa 2), của cộng sản Việt Nam, hạ quyết tâm dùng bạo lực vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam. Cái nghị quyết 15 ấy được ra đời trong cuộc họp dưới sự chủ trì của Hồ vào tháng 1-1959 (không hiểu sao ông lại viết lầm là 1960). Vì thế đến tháng 10-1959 chính phủ Ngô Đình Diệm phải có sắc luật 10/59 để tự vệ chống chủ trương bạo lực của cộng sản.

Đó là bằng chứng rõ ràng về dã tâm của tập đoàn Hồ chí Minh đối với nhân dân miền Nam Việt Nam. Nhân dân và chính quyền miền Nam Việt Nam vì tự vệ đã phải trừng trị những tên tay sai của thực dân đỏ nằm vùng, dùng bạo lực cướp của, giết người, phá hoại đời sống của người dân miền Nam. Nhưng do chỗ đứng của ông, nên ông đã nhìn sự việc lộn ngược, gọi bọn cướp của, giết người; bọn Việt gian, tay sai của thực dân đỏ đó là: "những người yêu nước"!!!(?)


Thưa ông Bùi Tín,


Những người Việt Nam rời vùng Hồ chí Minh cai trị, chạy vào thành thị trước năm 1954; những người từ Bắc di cư vào Nam, năm 1954; toàn thể nhân dân miền Nam Việt Nam cùng với bây giờ là đại bộ phận người Việt tị nạn cộng sản ở hải ngoại (loại trừ bọn nằm vùng, bọn gọi là "thành phần thứ ba", bọn cơ hội chủ hàng), và phải kể đến cả những người dân thường ở Bắc Việt Nam - mà ông gọi là công dân loại 2 - tuy cùng thế hệ với ông, nhưng tất cả đều là nạn nhân của cuộc xâm lăng vũ trang của thực dân đỏ mà tập đoàn cộng sản Việt gian Hồ chí Minh và bè lũ kế nghiệp thực hiện, cho nên họ không hề có tội gì với thế hệ trẻ để phải nhờ ông thay mặt xin lỗi. Hơn nữa, nếu viết như ông, rằng cả một thế hệ có sai lầm thì huề cả làng. Đây là kiểu xin lỗi rất quái chiêu, không biết phải nói như thế nào.

Cái lối tư duy đó của ông đã khiến ông không thấy rằng chính thế hệ trẻ hiện nay đang mang món nợ to lớn đối với thế hệ đàn anh, đã và đang chiến đấu chống chủ nghĩa thực dân cả xanh, cả đỏ, cả lũ cộng sản Việt gian bán nước là tập đoàn Hồ chí Minh và những tên kế tục hắn cho đến nay là bọn Nông đức Mạnh, Lê khả Phiêu, Đỗ Mười, Lê đức Anh, Võ văn Kiệt, Trần đức Lương, Phan văn Khải, Nguyễn văn An, Nguyễn mạnh Cầm, Nguyễn di Niên, Lê công Phụng v.v. Biết bao nhiêu người đã hy sinh thân mình. Một số rất ít được chôn cất ở các nghĩa trang thì sau tháng 4-1975, chính ông cũng thừa nhận rằng bị tập đoàn cộng sản Việt gian chóp bu cho san bằng mồ mả. Ngay những người đã chết từ lâu, trên mảnh đất của mình, mà bị đối xử như vậy, thì thấy bọn chúng còn tàn bạo hơn cả thực dân xanh (tức Pháp). Vì thực dân Pháp vẫn tôn trọng ngôi mộ của các liệt sỹ VNQDĐ ở Yên Báy, mộ của Đề Thám, của Phan Đình Phùng, Phan Chu Trinh v.v. và ngay cả mộ của bè lũ Nguyễn phong Sắc, Lê Mao. (Xô viết Nghệ tĩnh) cho đến Trần Phú, Hà huy Tập. Và cả mồ bố đẻ của Hồ chí Minh đâu có bị chính quyền miền Nam Việt Nam san bằng. Các thương phế binh của QLVNCH còn ở lại Việt Nam bị đối xử ra sao? Ra đến hải ngoại, các thế hệ đó vẫn tiếp tục phục quốc, đấu tranh cho dân chủ, tự do của dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước Việt Nam không ngừng nghỉ. Những Phạm Phú Quốc, Ngụy Văn Thà, Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn hai, Lê Nguyên Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn, Trần Văn Long. và bao chiến sỹ vô danh đã ngã xuống trước đây; những Hoàng Cơ Minh, Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, Hồ Thái Bạch, vừa qua; những Lý Tống, Nguyễn thị Ngọc Hạnh vẫn còn đang nằm tù vì đấu tranh cho quê hương và dân tộc. Những cuộc xuống đường của hàng 50 ngàn người về California trong vụ tên Việt gian Trần Trường; hàng 25 ngàn người trong kỷ niệm tượng đài chiến sỹ Việt-Mỹ vừa qua v.v. Thế hệ trẻ phải có trách nhiệm thừa kế thế hệ đàn anh, tiếp tục đấu tranh loại trừ tụi Việt gian cộng sản hiện nay, phải "tìm hiểu quá khứ và hiện tại, cố lý giải cho minh bạch mọi vấn đề và từ đó bắt tay xây dựng tương lai gần và xa."(8)

Đúng vậy, nếu không tìm hiểu quá khứ và hiện tại thì sẽ mơ hồ mà hành động như kiểu nhóm trí thức trẻ ở Toronto, dâng hương tưởng niệm, đọc văn tế trung tướng cộng sản Trần Độ; hoặc như "giáo sư, nhà bình luận chính trị" Nguyên Khả Phạm thanh Chương, mạt sát những người không tưởng niệm Trần Độ là "những cái đầu con tôm", nhưng khi được ông Đại Dương lịch sự chỉ dẫn cho bệnh táo bón thông tin, dư thừa ngôn ngữ Cầu Ông Lãnh thì Nguyên Khả "lặn" mất tăm, không dám trả lời đúng hay sai (dù bằng loại ngôn ngữ nào cũng được).

Ông chỉ có thể thay mặt cho thế hệ của ông đã và đang còn nằm trong bộ máy đàn áp của tập đoàn Việt gian cộng sản để xin lỗi thế hệ trẻ về những sai lầm tàn bạo, đẫm máu gây ra cho nhân dân và đất nước Việt Nam. Xin thành thật ghi nhận thiện chí của ông, nếu ông làm được điều đó.

Nhưng, xin lỗi chưa đủ, mà phải giúp cho thế hệ trẻ những thông tin trung thực, những kinh nghiệm máu và nước mắt của bản thân để họ dễ dàng "hiểu quá khứ và hiện tại" ít nhất cũng phải tương đối chính xác, làm cơ sở để "lý giải minh bạch mọi vấn đề".

Đặc tính của tập đoàn Việt gian cộng sản là "vừa đánh trống vừa ăn cướp", là "ký sinh trùng" của xã hội, là "nói một đằng làm một nẻo".

Hai cuốn sách của ông đã phơi bày mọi chính sách, mọi chủ trương của tập đoàn Hồ chí Minh và lũ thừa kế hắn, hoàn toàn do Nga-xô hoặc Tàu cộng chỉ đạo, sai khiến. Cung cách của chúng trước Nga-xô và Tàu cộng hoàn toàn là của lũ đày tớ vừa hèn hạ vừa trung thành mù quáng.

Những dẫn chứng cụ thể và sự mô tả của ông rất rõ ràng. Đúng ra phải kết luận rằng đấy là cốt cách Việt gian! Tiếc rằng ông, tuy biết hổ thẹn về "cấp lãnh đạo" đó của ông, nhưng chưa đủ can đảm để căm thù chúng, mà lầm lẫn kết luận sai và trút căm thù sai chỗ khi ông viết: "Cái duyên nợ nặng nề nhất với Việt Nam thì phải nói đến Stalin và Mao trạch Đông. Hai nhân vật này đã mang đến Việt Nam những cơn bão cấp 10, những cơn động đất đến 10 độ, làm điêu đứng từng gia đình, từng con người ở Việt Nam"! Tất nhiên là thông qua "thiện chí mù quáng" của đảng cộng sản Việt Nam. Tất cả bi kịch là ở đó."(9) Và, ông gọi Stalin là: "tên khát máu man rợ nhất, một con thú dữ lộng hành suốt hơn 30 năm cầm quyền, một kẻ gây tai họa cực lớn cho xã hội, nhân dân Liên-xô và thế giới" (10) Ông viết tiếp: "Stalin đã tạo ra những tên đồ tể dưới trướng hắn như Béria." (11)

Về Mao, ông viết: "từ 1950 đến tận 1978, sách ông Mao tràn ngập các cửa hàng bán sách Nhân dân và các tủ sách công cộng: trong thư viện Quốc gia Hà-nội, sách của Mao được xếp vào loại kinh điển cơ bản nhất. Thư viện các cơ quan cho đế tủ sách các khu phố, trường học, xí nghiệp đều tràn đầy sách của Mao. Sự sùng bái mù quáng Mao đạt đỉnh cao nhất vào tháng 12-1951, tại Đại hội Đảng lần thứ 2 họp trên căn cứ Việt Bắc, trăm phần trăm đại biểu giơ tay thông qua điều lệ mới của đảng ghi rõ trên giấy trắng mực đen: Đảng Lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Engels - Lênin - Stalin và tư tưởng Mao trạch Đông làm nền tảng. Mặt trời chói lọi ấy chỉ ít lâu sau đã chiếu rọi khắp đồng quê miền Bắc, với những cuộc đấu tố kinh hoàng giai cấp "địa chủ" (mà phần lớn chỉ là phú nông hoặc trung nông lớp trên); vợ tố chồng, con tố cha, con dâu tố bố mẹ chồng, anh chị em đấu tố nhau."(12) Và, ông khẳng định ai là chủ ở miền Bắc Việt Nam khi ấy, khi hạ bút viết: "Những phái viên kiệt xuất của Mao chủ tịch "là những ông chủ thực sự của cải cách ruộng đất mà mỗi lời phán, gợi ý, đề xuất được coi là mệnh lệnh, là chỉ lệnh của Mao chủ tịch vĩ đại!" (13) Đoạn văn trên của ông minh chứng Hồ và đảng của hắn là Việt gian! Tiếc rằng ông chỉ dám giải thích cái hiện tượng đó là do: "Sùng bái" mặt trời phương Đông, nể sợ thiên triều Bắc Kinh, ông Hồ đã truyền cho những người lãnh đạo khác ở quanh ông, cho cả đảng cộng sản một thái độ thụ động vô lý, mất hết khả năng phản kháng và tự vệ".(14)

Tất cả những trích dẫn trên đều do ông tự nguyện viết ra, ấy thế mà do chỗ đứng của ông, nên ông lại rất mâu thuẫn khi cố bào chữa cho Hồ rằng: "ở phía những người quốc gia cực đoan nhất thì sự đánh giá ông Hồ là hoàn toàn tiêu cực"!!!(?)(15)

Để rồi ông lại chán nản thốt ra rằng: "Trong các giáo trình lịch sử được dạy ở các trường hiện nay (tức trường của cộng sản), nhiều sự kiện, nhân vật cũng bị xuyên tạc. Các giáo trình ấy cho rằng Việt Nam Quốc Dân Đảng sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái bị thất bại, đã tan rã hoàn toàn. Các tổ chức VNQDĐ sau đó rồi Đại Việt Quốc Dân Đảng, Đại Việt Duy Dân cũng như Cách mạng Đồng Minh Hội đều bị coi là những tổ chức phản động, những tổ chức tay sai của Quốc Dân Đảng Trung quốc, tay sai của thực dân Pháp hay đế quốc Mỹ; nói tóm lại những tổ chức ấy đều là những tổ chức "Việt gian", là kẻ thù của dân tộc".(16)

Những tổ chức nói trên mà ông ghi nhận rằng bị tập đoàn Hồ chí Minh và lũ thừa kế coi là "Việt gian", lại còn qua giáo trình lịch sử để nhồi nhét vào đầu các thế hệ trẻ sự "xuyên tạc" ấy, chắc chắn không hề có chủ trương, chính sách, thái độ vâng dạ như Hồ và cái đảng cộng sản của hắn trước mẫu quốc Nga-xô và Tàu cộng để sát hại nhân dân Việt Nam, Lào và Căm-bốt. Bởi vì chính Hồ, trong cuộc gặp gỡ Lăng Kỳ Hán và Hồng Chi Hằng trong phái bộ của Trung hoa dân quốc, giữa năm 1946, đã trịnh trọng khẳng định rằng: "ở Việt Nam bất kỳ đảng phái nào cũng nhất trí đòi hỏi độc lập".(17)

Đấy là một sự thật. Nhưng là sự thật chưa đầy đủ, vì đảng nào cũng mưu cầu độc lập cho Việt Nam, chỉ riêng đảng cộng sản Đông dương là trước khi ra đời (1930), sau khi ra đời cho đến nay đều tìm cách triệt hạ các đảng phái, các cá nhân không chấp nhận để nhân dân và đất nước Việt Nam thành chư hầu của đế quốc đỏ Nga-Tàu.

Trần ích Tắc bị đi theo quân Nguyên vào Việt Nam (chắc vì ươn hèn và tham vọng). Những Hoàng cao Khải, Lê Hoan, chắc chắn tội ác không bằng một phần tỷ của Hồ. Khi Hồ còn sống đã dâng biển dâng đất cho Tàu cộng. Bọn thừa kế Hồ là Đỗ Mười, Lê khả Phiêu, Nông đức Mạnh lại vừa tiếp tục dâng đất, dâng biển cho Tàu cộng và v.v.

Những kẻ nói trên bị lịch sử kết tội là Việt gian thì Hồ và lũ thừa kế của hắn phải là đại, đại Việt gian.

Dù ông cố tìm cách phủ nhận, nhưng sự mô tả của ông về Hồ và bè lũ qua hai cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" đã chứng minh hùng hồn và cụ thể rằng chúng, tức Hồ chí Minh và đảng cộng sản của hắn là lũ Việt gian bán nước.




Phần 2
Những tên đặc công đỏ 
(Việt Thường – Nam Nhân – Lý Tuấn)


Ai là ngụy quân?
Thưa ông Bùi Tín,
Ông cũng đã sai lầm khi viết rằng quân đội là do "đảng cộng sản tổ chức và lãnh đạo". Sự thật là cộng sản tận cuối tháng 12-1944 mới cho ra đời được một trung đội vũ trang, do Hoàng quốc Việt làm lễ trao cờ ở Tân Trào. Nhìn tấm ảnh chụp thì thấy có chừng ba chục mống là cùng, với Võ nguyên Giáp làm trung đội trưởng. Trong hồi ký của trung tá Nguyễn văn Rạng, một trong số người của cái trung đội ấy, có kể là được học tập "điều lệ của Việt Minh" mà thôi.
Về Việt Minh (cả tên là Việt Nam Độc lập Đồng minh hội) ra đời từ 1936, do cụ Hồ học Lãm, một người Việt Nam yêu nước, lập ra ở bên Tàu, nhằm tập hợp mọi cá nhân có chung mục tiêu giành độc lập cho Việt Nam, có thể có đường lối khác nhau, nhưng cùng sinh hoạt trong tổ chức này để được chính phủ Tưởng giới Thạch khi đó cấp kinh phí cho hoạt động. Tổ chức ra đời, có ký danh với trung ương Quốc dân đảng của Tàu. Khi Hồ chí Minh bị tướng Trương phát Khuê bắt bỏ tù vì nghi là hoạt động cho cộng sản, Hồ năn nỉ để được các cụ Hồ học Lãm và Nguyễn hải Thần, nhân danh Việt Minh, bảo lãnh cho ra tù. Hồ xin gia nhập Việt Minh và xin được về hoạt động ở biên giới Việt-Hoa. Chính nhờ cái "lốt Việt Minh" che đậy bộ mặt dra-cu-la cộng sản mà Hồ đã đánh lừa được nhóm thanh niên gồm hơn 40 người do tổ chức Việt Cách của cụ Nguyễn hải Thần móc nối qua Tàu và được Trương trung Phụng huấn luyện về quân sự. Cái nhóm đó chính là bọn Chu văn Tấn, Lê quảng Ba, Trần Sâm, Hồng Kỳ sau này, tưởng Hồ là Việt Minh thứ thiệt nên chịu để Hồ giảng dạy về "Điều lệ của Việt Minh", và họ quay về nước hoạt động phát triển Việt Minh.
Cho nên Việt Minh thật ra không phải là tổ chức của cộng sản. Điều lệ của Việt Minh không khát máu, nói chung, như cộng sản, nên nó có hiệu quả hơn khi vận động quần chúng tham gia.
Đội lốt Việt Minh, Hồ đã cướp không được hơn bốn chục cán bộ khung và dễ dàng mở rộng địa bàn ở biên giới. Vì thế, Hồ đã liên lạc với Trường Chinh, Hoàng quốc Việt để họp ở Cao bằng (1941) đưa ra âm mưu mượn danh Việt Minh hoạt động cho cộng sản. Sau này chúng trân tráo rằng Việt Minh là do chúng nặn ra!!!
Nhờ trong lốt Việt Minh, bọn Hồ đã dựng ra được cái gọi là "cách mạng tháng tám 1945". Và, để chắc ăn hơn, Hồ cho giải tán đảng cộng sản Đông dương.
Nếu cộng sản có "uy tín trong dân" thì tại sao bọn cộng sản lại tuyên bố giải tán đảng của chúng? Và, còn ma mãnh hơn nữa, trong thư gửi tướng Trần tu Hòa (18), đề ngày 19-12-1945, Hồ khẳng định: "Việt Minh không phải là một đảng chính trị", mà có nhiều thành phần tham gia.
Có thể ông (và một số người khác) sẽ hỏi: tại sao Hồ lại nắm được chính quyền?
Đúng là Hồ đã nắm được chính quyền, không phải do đảng cộng sản của Hồ được dân tín nhiệm, không phải các đảng phái không cộng sản yếu kém, như sau này các bồi bút cộng sản xuyên tạc sự thật lịch sử.
Đảng cộng sản Đông dương của Hồ có được dân Việt Nam tín nhiệm không, thì chỉ nguyên cái việc vào thời điểm dầu sôi lửa bỏng như vậy mà chúng phải tự giải tán đảng cũng đã là một câu trả lời rõ ràng nhất rồi. Có điều là các đảng phái không cộng sản; các nhân sỹ, trí thức yêu nước; các phong trào quần chúng tự phát; các tổ chức tôn giáo; cho đến cả Hoàng đế Bảo Đại, chính phủ Trần Trọng Kim v.v… đều chỉ biết vui mừng thấy sau khi Nhật đảo chính Pháp thì đến lượt Nhật đầu hàng đồng minh (15-8-1945), nằm yên chờ giải giới. Mọi người đều náo nức thấy sau gần 100 năm bị thực dân Pháp đô hộ, nền độc lập của đất nước đã lấp ló như rạng đông nên mất cảnh giác dễ dàng để Hồ lừa. Mọi người, mọi tổ chức (trừ Hồ và bọn chóp bu của đảng cộng sản Đông dương) đều đấu tranh cho mục tiêu của độc lập, không có tham vọng thống trị như Hồ và bè lũ cộng sản, vì thế Hồ đã lừa đảo tất cả để cố "cướp lấy chính quyền", là cái mục tiêu chủ yếu mà thực dân đỏ Nga-xô giao nhiệm vụ cho hắn khi thành lập đảng cộng sản Đông dương từ 1930. Cho nên khi ấy chẳng ai nghĩ đến "cướp chính quyền" trong tay chính phủ Trần Trọng Kim của Hoàng đế Bảo Đại, loại trừ Hồ và bè lũ là có âm mưu đó. Chúng dựa hơi vào các cuộc tuần hành tự phát của quần chúng và của các đảng phái không cộng sản, biến cuộc biểu dương lực lượng lập lờ thành sức ép của quần chúng, và qua tên Tôn quang Phiệt, móc nối với thư ký riêng của Hoàng đế Bảo Đại là Phạm khắc Hòe, để tên này báo cáo láo với Hoàng đế Bảo Đại, khiến Ngài vốn không thích cầm quyền nên đã sẵn sàng thoái vị, trao quyền lại cho toàn dân. Lòng lương thiện cả tin của từ Hoàng đế Bảo Đại cho đến cụ Trần Trọng Kim và các nhân sỹ, trí thức yêu nước đã dễ dàng bị mắc quả lừa của tụi cộng sản.
Thành công bằng sự "tháu cáy" đó nên Hồ sợ phản ứng của nhân dân. Hắn vội vàng mời hoàng đế Bảo Đại làm cố vấn tối cao, cho Phạm khắc Hòe (thư ký của Bảo Đại) làm đổng lý văn phòng Bộ Nội vụ; mời hầu hết các thành viên trong chính phủ Trần Trọng Kim tham gia chính phủ; mời các nhân sỹ, trí thức có tên tuổi, các quan lại cũ như thượng thư Bùi bằng Đoàn (cụ thân sinh của ông Bùi Tín); khâm sai đại thần Phan kế Toại; tổng đốc Hồ đắc Điềm; các tri phủ Tạ quang Đạm, Dương văn Đàm v.v., dùng Vũ đình Huỳnh, một người gia đình họ hàng là công giáo toàn tòng làm trong ban thư ký, để yên lòng giáo dân và từ đó đi Phát Diệm gặp Đức Cha Lê Hữu Từ mời vào ban cố vấn. Hồ còn đề nghị cấp tiền nuôi dưỡng cho các bà vợ của các vua Thành Thái và Duy Tân; cho in tem chân dung của Nam Phương hoàng hậu. Hồ còn đến Văn miếu dâng hương đức Khổng tử; dự giỗ tổ Hùng Vương, làm kỷ niệm ngày mất của Phan chu Trinh và đề nghị hoãn lệnh của chính phủ Trần Trọng Kim triệt hồi và truy tố các tham quan (19), xin được hợp tác với các đảng phái không cộng sản, và tuyên bố giải tán đảng cộng sản Đông dương.
Thủ đoạn lưu manh chính trị đó đã giúp Hồ được mọi người coi như là một "nhà nho yêu nước", nhất là Hồ cho loan tin rằng Hồ là con một phó bảng, một người đã từng được chung sống với cụ Phan chu Trinh ở Paris (Pháp). Và được cụ Phan dạy cho nghề ảnh. Cùng lúc Hồ cho tung tin Hồ giống như công tử Trùng Nhĩ (tức Tấn văn Công trong Đông Chu liệt quốc). Cho nên phần lớn không coi Hồ là cộng sản và sẵn sàng vì việc chung của đất nước mà hợp tác với Hồ.
Cho nên cái gọi là "cách mạng tháng tám" không có đổ máu. Đó là một sự chuyển tiếp hòa bình quyền lực cho toàn dân mà tụi lưu manh cộng sản đội lốt Việt Minh giành phần, bịa đặt "cướp công" thành "cướp chính quyền"; bịa chuyện đánh Nhật, đuổi Pháp mà trên thực tế Pháp đã bị Nhật lật đổ và đến lượt Nhật bị đồng minh bắt hàng không điều kiện. Chỉ đến khi nhận được ấn, kiếm của Hoàng đế Bảo Đại trao cho, tụi cộng sản mới hơi lòi bộ mặt lưu manh trộm cắp. Đó là việc tên Trần huy Liệu cho giết Phạm Quỳnh và con là Phạm Giao và Trần huy Liệu còn cưỡng ép vợ Phạm Giao làm vợ lẽ của hắn. Hai cha con Phạm Quỳnh, Phạm Giao không liên quan gì đến chính phủ Trần Trọng Kim.
Việt Nam, chính phủ Trần Trọng Kim có thể tạm ví như chính phủ dân chủ Kêrenski ở Nga tháng 2-1917. Và Hồ đã áp dụng kiểu như Lê-nin với Kêrenski. Có điều bọn cộng sản Hồ chí Minh không được quần chúng đông đảo hậu thuẫn, tổ chức mỏng và lực lượng vũ trang có mỗi trung đội của Võ nguyên Giáp và Chu văn Tấn, vì thế Hồ phải giải tán đảng cộng sản Đông dương và chui đầu núp vào danh tiếng của Hoàng đế Bảo Đại, của các thành viên trong chính phủ Trần Trọng Kim, của các đảng phái không cộng sản, của các nhân sỹ, trí thức có tên tuổi, của các vị lãnh đạo tinh thần có uy tín, nhằm tạm thời che đậy bộ mặt Việt gian, tay sai của thực dân đỏ Nga-xô.
Nếu không kịp thời giải tán đảng cộng sản Đông dương và lờ đi cái tên Nguyễn ái Quốc, chắc chắn toàn dân Việt Nam sẽ không mơ hồ để phải chịu đựng quãng thời gian làm nô lệ cho thực dân đỏ gần dài bằng nô lệ cho thực dân Pháp (tính cho đến nay).
Mặc dù đa số đang ngây ngất men chiến thắng vì Pháp đổ, Nhật đầu hàng Đồng minh, được tự do đi lại ăn nói hội họp nên mơ hồ, nhưng vẫn không ít người sáng suốt nhìn được rõ con quỷ đỏ dra-cu-la Hồ chí Minh, như Trương tử Anh của Đại Việt, như Lý Đông A, như Khái Hưng, như Ngô đình Diệm v.v. và sau vụ này là Đức Cha Lê hữu Từ, cụ Trần Trọng Kim và cả cố vấn tối cao Vĩnh Thụy (tức cựu Hoàng Bảo Đại). Vì thế Hồ đã cho mật lệnh thủ tiêu những người yêu nước không là cộng sản, kể cả những nhân vật trotskít như Tạ thu Thâu, Phan văn Hùm cũng như vu khống, bôi nhọ uy tín của các đảng phái không cộng sản và lãnh tụ của các đảng phái đó.
Khi đã nắm được chức chủ tịch của Chính phủ Liên hiệp, một trong những mối lo hàng đầu của Hồ là phải nắm lực lượng vũ trang. Để tránh lộ liễu, Hồ để những nhân vật không đảng phái hoặc đảng phái khác nắm bộ quốc phòng, cụ thể là cụ Vũ hồng Khanh làm bộ trưởng, thế là VNQDĐ của cụ Vũ hồng Khanh há miệng mắc quai khi Hồ cử các nhà quân sự của VNQDĐ vào Nam, như tướng Nguyễn Bình, Nguyễn văn An v.v… Rồi Hồ lấy cớ cần người có uy tín đi ký Hiệp định Sơ bộ 9-3 ở Đà-lạt, để cử cụ Vũ hồng Khanh đi, nghĩa là lột chức đầy quyền lực của Vũ hồng Khanh. Và Hồ đề cử luật sư Phan Anh, một người không đảng phái, từng là bộ trưởng trong chính phủ Trần Trọng Kim, giữ ghế Bộ trưởng Quốc phòng. Như vậy làm sao ai dám ngờ dã tâm của Hồ. Tiếp theo, Hồ cho lập Quân ủy hội song song với Bộ quốc phòng, và cử Võ nguyên Giáp làm chủ tịch Quân ủy hội, và cụ Vũ hồng Khanh, ký hiệp định Sơ bộ 9-3 về, làm phó chủ tịch Quân ủy hội. (20)
Ngày 22-5-1946, Hồ ký sắc lệnh số 71 về việc tổ chức quân đội (hợp nhất của các đảng phái, kể cả bảo an binh của chính phủ tiền nhiệm Trần Trọng Kim) và gọi là Quân đội Quốc gia. (21)
Thời gian đó ở phía Bắc, quân Tàu Tưởng, vào giải giới quân Nhật, gây nhiều chuyện nhố nhăng, quân Pháp lăm le quay trở lại. Còn phía Nam thì lính Pháp theo chân quân đội Anh vào giải giới quân Nhật bắt đầu gây chiến. Cả nước khí thế như núi lửa, thanh niên nam nữ ai cũng muốn gia nhập lực lượng vũ trang. Những nhà giàu bỏ tiền thành lập quân đội, như bà Cát thành Long chẳng hạn, đã nuôi hàng trung đoàn quân và cả hai con trai cùng gia nhập quân đội. Dựa vào khí thế đó, Hồ đã đội lốt Chính phủ Liên hiệp kêu gọi thanh niên nhập ngũ bảo vệ Tổ quốc. Các trường quân chính được mọc lên.
Ngày 26-5-1946, Hồ cùng bộ trưởng quốc phòng là luật sư Phan Anh, chủ tịch quân ủy hội là Võ nguyên Giáp lên Sơn-tây dự lễ khai giảng lớp võ bị Trần Quốc Tuấn. Giám đốc trường là huynh trưởng hướng đạo sinh Hoàng đạo Thúy (không đảng phái) thay mặt trường nhận cờ Hồ tặng, có thêu tôn chỉ của quân đội quốc gia là: "Trung với nước, hiếu với dân". (22)


Thưa ông Bùi Tín,

Những điều chúng tôi nêu trên là trích dẫn từ sách, báo, hồi ký, tư liệu lưu trữ của cộng sản. Điều đó đã chứng minh rằng cộng sản không phải là kẻ tổ chức và lãnh đạo quân đội.
Vì lòng yêu nước, các đảng phái, các cá nhân không cộng sản đã hòa giải, hòa hợp với nhau và với cả Hồ để cho ra đời Chính phủ Liên hiệp. Cái Chính phủ Liên hiệp đó mới là cha đẻ ra quân đội hợp nhất của các đảng phái, của bảo an binh và mang tên QUÂN ĐỘI QUỐC GIA. Quân đội đó ra đời để bảo vệ độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, với tôn chỉ: TRUNG VớI NUớC, HIẾU VớI DÂN.
Từ 1930, theo lệnh thực dân đỏ Nga-xô, Hồ đã thành lập đảng cộng sản Đông dương làm công cụ bành trướng chủ nghĩa thực dân đỏ ra toàn cõi Đông dương.
Hồ không phải như Trường Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn văn Linh, chỉ loanh quanh trong 3 miền Bắc, Trung, Nam của Việt Nam, không phải như me-xừ hoạn lợn (mà ông sáng tác thành thợ chữa khóa dạo) là Đỗ Mười, chỉ loanh quanh mấy chợ quê để thiến heo, hay như Lê khả Phiêu, cao nhất là tới đất Căm-bốt lúc đã bị tụi cộng sản thân Tàu tàn phá, mà Hồ từng sống trên khắp các nước Pháp, Anh, Mỹ, Tàu, Thái lan, Nga-xô. Nghĩa là Hồ không chỉ nghe nói mà là đã nếm, đã thử, đã sống trong một loạt xã hội có chế độ chính trị khác nhau. Nghĩa là Hồ có điều kiện thực tế để so sánh cái hơn cái kém của các thể chế chính trị đó. Hồ đã chứng kiến những vụ thanh trừng nội bộ, tàn sát nhân dân, âm mưu bành trướng bá quyền của Stalin. Và, chắc chắn Hồ phải hiểu rõ mục đích thành lập đảng cộng sản Đông dương để làm gì, lợi cho ai, hại cho ai?
Chính vì thế Hồ mới bán cụ Phan Bội Châu cho mật thám Pháp mới phá cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thái Học; mới giết, bôi nhọ những người yêu nước v.v… Cho nên Hồ đã cố tình xóa bỏ công lao của Chính phủ Trần Trọng Kim đã thổi bùng trở lại tinh thần yêu nước của nhân dân trên toàn cõi Việt Nam; đã tạo ra tiền đề cho sự hòa giải, hòa hợp của toàn dân Việt Nam, để cuối cùng Hồ là kẻ thủ lợi.
Sau khi Tàu cộng làm chủ lục địa, Hồ cho quân đội quốc gia luân phiên qua Tàu để tẩy não, để ồ ạt kết nạp vào cộng sản. Và cuối cùng thì như ông đã viết trong sách của ông rằng: "Đảng lãnh đạo thường xuyên, liên tục, toàn diện và tuyệt đối quân đội ta"(23).
Kể từ khi hoàn toàn làm chủ được quân đội quốc gia, Hồ đã đánh tráo cái tên quân đội quốc gia thành quân đội nhân dân hoặc "bộ đội cụ Hồ"! Và cái tôn chỉ ban đầu của Quân đội Quốc gia là "Trung với nước, hiếu với dân" bị biến chất thoái hóa thành "trung với đảng, hiếu với dân"; nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Cuối năm 1951, đảng cộng sản Đông dương, từng giả vờ tự giải tán để hoàn thành việc lừa đảo toàn dân Việt Nam, lộ diện trở lại với cái tên hiền lành và mơ hồ hơn gọi là "đảng Lao động Việt Nam". Kể từ đó, mọi chính sách của Hồ đều nhằm vô hiệu hóa sự hoạt động của Quốc hội khóa 1 (của nhiều đảng phái không cộng sản), tiến tới âm thầm đảo chính Chính phủ Liên hiệp. Gọi là đảo chính âm thầm, vì Hồ chỉ cốt tước thực quyền của thành viên chính phủ không là cộng sản, lưu giữ họ lại làm bù nhìn nhằm lèo lái cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc chống thực dân Pháp thành cuộc chiến của thực dân đỏ nhằm giành giật 3 nước Đông dương trong tay thực dân Pháp.
Tuy đã nắm trọn quyền về lực lượng vũ trang, nhưng Hồ còn muốn lực lượng vũ trang phải hoàn toàn trung thành mù quáng đối với Hồ. Vì thế hắn đã sai Lê văn Lương, trưởng ban tổ chức trung ương, ký quyết định về "chế độ ngày sinh hoạt đảng trong quân đội" vào ngày 15-3-1954. (24)
Và biện pháp chủ yếu Hồ dùng để làm đảo chính âm thầm Chính phủ Liên hiệp là "giảm tô và cải cách ruộng đất" và "chấn chỉnh tổ chức".
Để che giấu âm mưu đen tối nói trên, trong phiên họp ngày 15-3-1954 của hội đồng chính phủ, Hồ đề nghị thông qua điều lệ tổ chức ủy ban cải cách ruộng đất trung ương và danh sách các ủy viên của ủy ban này.
Âm mưu đó bộc lộ trắng trợn trong "Thông tri của ban bí thư"(25) do Lê văn Lương ký ngày 22-5-1954, gửi các Liên khu ủy Việt Bắc, III, IV, khu ủy Tây Bắc và các Đoàn ủy cải cách ruộng đất và giảm tô. Trong thông tri có những đoạn đáng chú ý như:
"Ban thường trực ủy ban cải cách ruộng đất Trung ương phụ trách giải quyết công việc hàng ngày gồm một số đồng chí trung ương (tức cộng sản). Như vậy rất tiện cho Trung ương dùng danh nghĩa công khai để chỉ đạo công tác phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất."
"Phải coi những chỉ thị, thông tri ấy như của trung ương Đảng và phải chấp hành nghiêm chỉnh."
"Những vấn đề thuộc về nội bộ Đảng hoặc cần giữ bí mật không tiện dùng danh nghĩa công khai, Trung ương (tức cộng sản) sẽ gửi cho các Liên khu ủy, Tỉnh ủy và Đoàn ủy, và các Liên khu ủy, Tỉnh ủy và Đoàn ủy cũng báo cáo trực tiếp lên trung ương (tức cộng sản) những vấn đề thuộc nội bộ đảng."
Cái "cần giữ bí mật" đó là mượn cớ cải cách ruộng đất để thanh lọc tận cơ sở những đảng phái, cá nhân, tổ chức không là cộng sản và cả những đảng viên cộng sản mà Hồ "mở cửa đảng" tổ chức kết nạp ồ ạt. Giờ đây thành phần tổ chức đảng ở cơ sở phải đảm bảo "trung với đảng" như quân đội vậy. Nghĩa là phải trung với Hồ, hay nói cách khác là phải trung với mẫu quốc đỏ Nga-xô.
Kết thúc cái gọi là "rèn cán, chỉnh quân" và thường xuyên thanh lọc qua "Quyết định về chế độ ngày sinh hoạt đảng trong quân đội", được ký ngày 15-3-1954, thì kể từ đó cái gọi là quân đội nhân dân Việt Nam thực chất là ngụy quân. Nhiệm vụ của ngụy quân cộng sản là hoàn thành bất cứ nhiệm vụ nào mà đảng – tức nhóm lãnh đạo chóp bu – ra lệnh.
Sau cải cách ruộng đất, chấn chỉnh tổ chức, cách mạng văn hóa tư tưởng và cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh thì Việt Nam (phía Bắc sau 1954 và cả nước sau 30-4-1975) thưc tế là thuộc địa đỏ, bị cai trị bởi tụi cộng sản là tổ chức Việt gian, tay sai của thực dân đỏ Nga-Tàu.
Dám nhìn vào sự thật mới có thể lý giải được vì sao các chính sách của cộng sản đề ra đều chống lại quyền lợi của nhân dân và đất nước Việt Nam, từ khi Hồ còn sống cho đến tất cả lũ thừa kế Hồ là Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn văn Linh, Đỗ Mười, Lê khả Phiêu và nay là Nông đức Mạnh. Dám nhìn vào sự thật này mới hiểu tại sao cái gọi là quân đội nhân dân Việt Nam lại có thể pháo kích vào trường học, chợ búa, nhà thờ, đền chùa, giết dân như vụ tàn sát gần 2 vạn người Mèo ở hai huyện Phó Bảng và Mèo Vạc ở Hà-giang; tàn sát giáo dân ở Nghệ-an, Quảng-bình; tàn sát nhân dân ở Huế (1968); xâm lược miền Nam Việt Nam, trấn áp và tàn sát đồng bào thiểu số ở Tây-nguyên; sau 30-4-1975 đã tàn phá các thành thị ở miền Nam khiến trong cuốn "Mặt thật" ông đã phải viết rằng: "xử sự như những đội quân chiếm đóng".


Thưa ông Bùi Tín,

Ông đã tiệm cận với sự thật. Chúng "xử sự như những đội quân chiếm đóng" là vì cái sự thật rành rành mà ông chưa muốn thấy. Đó là:
Cái gọi là quân đội nhân dân Việt Nam thực chất là ngụy quân, công cụ của tập đoàn Việt gian cộng sản Việt Nam, tay sai của đế quốc đỏ Nga-Tàu.



Phần 3
Những tên đặc công đỏ 


 

dac cong do 3 from hochiminhchode on Vimeo.


Hòa giải và hòa hợp
Trong cuốn "Mặt thật", ông đã để nhiều trang nói về "hòa giải hòa hợp". Cũng từ chỗ đứng đặc biệt của ông, nên về vấn đề này ông đã nhận xét và lý giải xa với thực tế và mâu thuẫn với chính ông nữa.


Ông đã viết: "Trong cộng đồng người Việt, cũng có ý kiến cực đoan cho rằng đối với cộng sản, không có vấn đề hòa giải và hòa hợp gì hết, chỉ có vấn đề buộc họ phải rút lui, chỉ có vấn đề họ phải giao quyền (rút lui như thế nào và giao quyền ra sao thì có người không phát biểu rõ được) vì họ là kẻ có tội, phá hại đất nước. Đây là lối nhìn trịch thượng, không thực tế. Còn cần tạo nên nhiều sức ép trong và ngoài nước mạnh mẽ mới có thể ép những người lãnh đạo Đảng Cộng sản chấp nhận bầu cử dân chủ thực sự theo quan điểm đa nguyên.

Trong cộng đồng người Việt hải ngoại, những người có cách nghĩ cực đoan không nhiều, số này lại giảm đi rõ rệt". (26)


Khi viết những giòng trên, chúng tôi nhận thấy ngòi bút của ông lại quay về lối mòn của Phó tổng biên tập báo Nhân dân, nghĩa là người nghĩ, nói và viết đúng với lập trường của tập đoàn đầu lãnh Việt gian cộng sản.

Không cần trích dẫn những tài liệu khác, chỉ cần dựa vào những điều ông đã viết trong hai cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật", đủ chứng minh tập đoàn Việt gian cộng sản Hồ chí Minh và cái đảng của chúng đã gây bao tội ác và phá hoại đất nước Việt Nam như thế nào. Thế mà ý kiến không chấp nhận chúng, buộc chúng phải rút lui lại bị ông khép cho tội trịch thượng! Trong con mắt của ông thì lũ bán đất, bán biển cho Tàu cộng; giết dân lành; đàn áp tôn giáo; bỏ tù, giết hại những người nói lên chút sự thật, là thượng. Vậy người dân là hạ chăng? Nên không có quyền lật đổ thượng?

Khi ông cầm bút viết hai tiếng "trịch thượng" thì tự thân hành động đó đồng nghĩa với việc tán thành điều 4 trong Hiến pháp 1992 của cộng sản, giành cho chúng độc quyền là chủ của nhân dân và đất nước Việt Nam, không ai được quyền buộc chúng rút lui. Hành động đó bị ông xếp là "cực đoan", là "trịch thượng". Chữ nghĩa này từ mồm cái loại ít học "bò tót" như Đỗ Mười, Lê khả Phiêu, Lê đức Anh, Chu huy Mân và ngay cả Trần Độ v.v… còn có thể hiểu được. Còn ở miệng ông Bùi Tín, đang kêu gọi "hòa giải hòa hợp", xây dựng dân chủ đa nguyên, thì quả thực chúng tôi không thể hiểu nổi!!!

Thật "đại mâu thuẫn với bản thân", khi ngòi bút của ông trong "Hoa xuyên tuyết" đã viết rằng: "Mà lãnh đạo thì rất sợ đổi mới về chính trị, họ sẻ mất quyền, cả quyền lãnh đạo và quyền lợi riêng. Đất nước bất hạnh chính là vì thế - "Thế cùng tất biến", nhiều người nói như vậy. Vì đó là quy luật. Nhưng lại là quy luật xã hội. Cứ chờ thì không ổn, biết bao giờ mới thay đổi! Phải có sự thức tỉnh, có ý chí, có hành động của con người! Nếu không sức ỳ sẽ lì lợm tồn tại."(27)

Rồi ông viết tiếp: "Tôi không mong chờ gì ở sự tỉnh ngộ, thức thời của những người lãnh đạo. Họ đã khác xưa quá nhiều rồi! Có hai đức tính cần thiết nhất cho người lãnh đạo thì ở họ quá nghèo nàn. Đó là đức tính biết lắng nghe, tiếp nhận những điều hay, lẽ phải, và đức tính biết thích ứng chủ động với những biến chuyển đi lên của thế giới này."(28)

Khi viết những đoạn văn ở trên, rõ ràng ông thấy, đối với tụi lãnh đạo cộng sản Việt Nam đương quyền, không thể nói lý lẽ được, mà chỉ có cách lật đổ - tức buộc chúng rút lui - đúng như quan điểm của những người Việt ở nước ngoài mà ông chụp cho cái mũ "cực đoan".




Phần 4
Bùi Tín và những tên đặc công đỏ



Thưa ông Bùi Tín,
Là một nhà báo có quyền, ông đã được chứng kiến tận mắt nhiều sự việc nên ông đã viết về cái "huyền thoại" giải phóng dân tộc đó trong "Hoa xuyên tuyết" như sau: "Cuộc chiến tranh đã hao phí hàng triệu sinh linh, đều là con em đất Việt, đồng bào ruột thịt cả. Để làm gì? Để đến nỗi này chăng? Nói là giải phóng đất nước, giải phóng đồng bào, mà sao hàng trăm nghìn người lại phải vào ngồi tù trong các trại tập trung cải tạo, kéo dài hàng trăm, hàng ngàn ngày, với biết bao tủi cực và khổ đau. Nhân danh lẽ phải? Nhân danh lẽ công bằng? Nhân danh cách mạng? Tôi chẳng sao lý giải nổi nữa! Và cách mạng, hy sinh, chiến đấu để làm gì? Để sau toàn thắng, cuộc sống của nhân dân ta còn lầm than, bi đát hơn cả thời chiến tranh, để Nguyễn Du sống lại sẽ còn phải khóc cho thân phận hàng chục vạn nàng kiều hiện đại, đang nhan nhãn trên các hè phố Hà-nội, Sài-gòn khi nắng chiều vừa tắt."(38)
Đọc những dòng trên, người Việt lương thiện nào cũng đau sót, tê tái trong lòng. Vậy mà ông, tác giả của những dòng đó, lại có thể viết lời thương tiếc Trần Độ khi hắn chết!!! Trong suốt 15 năm dài, Trần Độ đã cổ võ, chứng kiến cuộc chém giết đẫm máu của những người mà ông gọi là "con em đất Việt, đồng bào ruột thịt cả", vậy mà hắn chẳng những không thấy lương tâm cắn dứt mà còn tự hào về thành tích uống máu "con em đất Việt". Cho đến chết Trần Độ vẫn chưa một lời ăn năn, hối hận với các nạn nhân. Không những thế, Trần Độ còn vênh váo, tự hào là "siêu công dân", "công dân loại 1" ngay trước khi chết! Ông lý giải cách nào để có thể nhìn nhận một tên sát nhân từ răng tới tóc như thế là "đấu tranh cho dân chủ"?
Một số người, u mê hoặc cố tình u mê nào đó, cho rằng Trần Độ là tác giả của nghị quyết 5 - cởi trói cho văn nghệ sỹ - nên phù phép cho sát thủ chuyên nghiệp Trần Độ thành "anh hùng đấu tranh cho dân chủ của Việt Nam". Là một nhà báo, là một đảng viên cộng sản có 47 năm tuổi đảng, chắc chắn ông không tin điều đó. Vậy tại sao ông lại "mũ ni che tai"? Ông thừa biết cơ cấu tổ chức của đảng cộng sản là chẳng có ủy viên trung ương nào là tác giả của một nghị quyết trung ương. Một nghị quyết T.Ư. nào đó về một chính sách nhất định là dựa trên cơ sở Nghị quyết của đại hội đảng. Đề xuất cho ra đời một nghị quyết T.Ư., phải là ủy viên bộ chính trị phụ trách bộ môn mà nghị quyết T.Ư. đề cập đến. Tập hợp của những kẻ độc quyền đề ra đường lối, chính sách gọi là"bộ chính trị". Đó là lý do sự ra đời và tồn tại của cái gọi là "bộ chính trị".
Cho nên cái nghị quyết 5 (mà Trần Độ mạo nhận là tác giả) được ra đời dựa trên cơ sở Nghị quyết đại hội đảng về "mở cửa" và "đổi mới" của thời Nguyễn văn Linh là tổng bí thư. Trần Độ là ủy viên trung ương, phụ trách văn hóa - tư tưởng, qua đường lối "đổi mới" nên được cho qua Nga-xô học tập về "công tác quản lý văn hóa - tư tưởng". Học tập về, Trần Độ được Nguyễn văn Linh sai làm đề cương về vấn đề "văn hóa - tư tưởng". Bản đề cương đó là ý kiến của nhà văn Nguyên Ngọc (cùng đi học ở Nga với Trần Độ), được Trần Độ "cóp-pi", được cả Đỗ Mười (khi đó là thường trực ban bí thư) lẫn Nguyễn văn Linh góp ý, sau khi Nguyễn văn Linh giành 2 ngày họp với văn nghệ sỹ để nghe các ý kiến đề xuất. Bởi vậy, nếu nói đến tác giả của nghị quyết 5 thì phải nói đó là Nguyễn văn Linh.
Bởi vì, ngay sau khi Nguyễn văn Linh rời chức trưởng ban dân vận trung ương và ủy viên bộ chính trị để về lại Sài-gòn nắm chức bí thư thành ủy Sài-gòn, thì từ Sàigòn đã có một số thay đổi về quản lý kinh tế và sử dụng văn nghệ sỹ. Cụ thể là, nhà nghiên cứu âm nhạc học từ Nga-xô về, là giáo sư Ca lê Thuần (con giáo sư Ca văn Thỉnh) được đưa vào thành ủy, phụ trách văn hóa – văn nghệ của Sài-gòn. Một nhà văn ở ngoài Bắc còn nằm trong ẩn số là Nguyễn mạnh Tuấn, được Nguyễn văn Linh chống lưng, nên cho ra đời cuốn đầu tay, mang tên "Đứng trước biển". Nội dung sách phê phán quan điểm bảo thủ, tư duy cằn cỗi trong quản lý sản xuất, nằm trong não trạng của tất cả các cấp, trừ "đồng chí bí thư thành ủy" là sáng suốt! Và về kinh tế thì, hiện tượng Ba Thi - giám đốc cửa hàng lương thực Sài-gòn - được "ô dù" và "đề cao", đến mức xóa sổ luôn Sở lương thực thành phố. Và Ba Thi thì vượt ra ngoài phạm vi lương thực để buôn cả xăng dầu v.v… Kể từ đó, Nguyễn văn Linh bắt đầu "ghiền" được tán tụng bằng văn chương và chú ý đến văn nghệ sỹ. Cho nên khi nắm chức tổng bí thư, Nguyễn văn Linh, là tổng bí thư đảng cộng đầu tiên, chịu ngồi 2 ngày liền lắng nghe ý kiến của văn nghệ sỹ mà chỉ chiếm có 50 phút để phát biểu ý kiến cá nhân. Nghị quyết 5 được bộ chính trị thông qua là như vậy!
Trong một cuộc trả lời phỏng vấn của đài á châu tự do, Trần Độ có nói đến việc "anh Nguyễn văn Linh hiểu lầm tôi, anh ấy giận tôi", nhưng Trần Độ né nói nguyên nhân. Cái nguyên nhân ấy chính là Trần Độ vốn hay ba hoa, đi đâu cũng cứ nói láo rằng mình là tác giả của nghị quyết 5. Vì thế mà Nguyễn văn Linh khinh thường và ghét Trần Độ. Nhân "mở cửa" không ổn, tập đoàn Nguyễn văn Linh "đóng cửa" lại, Nguyễn văn Linh cho dẹp nghị quyết 5 và cho anh chàng "ba phét" Trần Độ "ngồi chơi sơi nước". Ỷ mình là công thần bị bạc đãi, Trần Độ bật lò xo. Sự việc được tô màu là đấu tranh cho dân chủ!!!
Giờ thử xét lại nội dung "đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam" của Trần Độ là gì?
Cái gọi là nghị quyết 5 mà Trần Độ nhận vơ là tác giả, và có thể rất nhiều kẻ, chỉ biết cái tên "nghị quyết 5" chứ chưa chắc đã đọc và hiểu nội dung của nó, nhưng vẫn lớn lối bàn láo!!!
Trước khi có nghị quyết 5 thì văn nghệ sỹ, trí thức ở Việt Nam bị coi "không bằng cục phân", thân phận văn nghệ sỹ, trí thức vẫn là nô lệ của đảng cộng sản, tùy tiện sử dụng theo hứng. Đến khi nghị quyết 5 ra đời, thì nội dung của nó vẫn khẳng định đảng phải lãnh đạo công tác văn hóa tư tưởng mà văn nghệ sỹ, trí thức vẫn chỉ là công cụ của đảng.
Cái mới của nghị quyết 5 là dựa vào đường lối "mở cửa", "đổi mới", để đổi mới cách quản lý công tác văn hóa – tư tưởng và đổi mới cách quản lý lực lượng văn nghệ sỹ trí thức, nhằm khai thác có hiệu quả hơn cho sự độc quyền đảng trị.
Nghĩa là nội dung nghị quyết 5 đặt vấn đề tạo điều kiện thuận lợi hơn cho văn nghệ sỹ trong sáng tác. Nhưng thân phận văn nghệ sỹ vẫn phải chịu sự lãnh đạo của đảng (như con chó vẫn bị xích cổ vậy)!!!
Vẫn còn dưới sự lãnh đạo của đảng thì dân chủ ở chỗ nào? (xin quý vị thầy bói sờ voi trả lời cho!) Đã thế còn dưới sự lãnh đạo của một tên học chưa qua bậc 2 phổ thông như Trần Độ!!
Đấy là về cái gọi là nghị quyết 5.
Còn những điều Trần Độ nói và bàn thì chẳng có điều gì mới lạ hơn những tụi cầm quyền trong tổ chức Việt gian cộng sản đã, đang và vẫn tiếp tục nói. Xin tham khảo sự so sánh qua bài của ông Đại Dương, có tên "Thưa chuyện với ông Phạm thanh Chương." (Tạp chí Người Dân, số 148, 12-2002 - Costa Mesa - CA. USA)
Là một trong những người chủ chốt gây ra cảnh tàn sát nhân dân Việt Nam Cộng Hòa, đẩy những nam nữ thanh niên miền Bắc Việt Nam vào lò lửa chiến tranh vì chiến lược bá chủ toàn cầu của đế quốc đỏ Nga-Tàu, Trần Độ chưa từng chảy một giọt nước mắt hối hận.
Là một người được cho làm ủy viên trung ương đảng cộng bằng chỉ định trước, liên tục 5 khóa liền, không hề thấy Trần Độ biết xấu hổ vì cái không có dân chủ đó. Cho đến tận lúc Trần Độ "đang hí hửng" với cái nghị quyết 5, thì Trần Độ vẫn chưa mở mắt để thắc mắc tại sao ban bí thư chỉ định Nguyên Ngọc làm "bí thư đảng đoàn" văn hóa văn nghệ, mà không có bầu bán. Nghĩa là trong đầu Trần Độ hoàn toàn không có khái niệm dân chủ (như mấy anh "thầy bói sờ voi" đoán mò).
Trần Độ cho đến chết vẫn tự hào về thành tích làm tay sai cho Nga-xô, Tàu cộng xâm lược, chém giết, tàn phá Việt Nam Cộng Hòa; tự hào được tên đại Việt gian Hồ chí Minh khen thưởng; sau khi bị đồng bọn "đá đít" ra khỏi trung ương thì giọng lưỡi Chí Phèo đã thốt ra rằng vẫn là "siêu công dân", "công dân loại một"!!!
Trần Độ có thể viết kể lể về việc bốc mộ cho bà chị, nhưng lại không thể có tuyên bố về việc tập đoàn Việt gian Lê khả phiêu, Nông đức Mạnh dâng đất, dâng biển cho Tàu cộng; có thể đi từ Hà-nội vào Sài-gòn thăm con và tuyên bố nhăng nhít đánh bóng cho bản thân và lũ gia nô mới, nhưng lại không thể về thăm quê ở Thái Bình để tìm hiểu, ủng hộ nhân dân Thái Bình đòi dân chủ và công lý!!!
Trần Độ đặt vấn đề về dân chủ không liên tục và mạnh mẽ như bọn cầm quyền. Và điểm giống nhau một cách tuyệt đối giữa Trần Độ và bọn cầm quyền là nguyên nhân không thể nào xây dựng dân chủ được ở Việt Nam chính là tập đoàn Việt gian cộng sản đề cao tư tưởng Hồ chí Minh và vẫn độc quyền nắm giữ lực lượng vũ trang và công an, tòa án là phạm vi vẫn bị tránh né đề cập đến.
Trần Độ và Trần Khuê là hai kẻ bổ sung cho nhau, nhằm thần tượng hóa Hồ chí Minh. Trần Khuê có học hơn Trần Độ nên "láu vặt", luôn luôn nịnh "đồng chí tổng bí thư". Chỉ tiếc cho Trần Khuê "tự mình răng cắn phải môi"; nịnh Đỗ Mười, mép còn chưa khô nước miếng thì Đỗ Mười đổ, Phiêu thay; lại lên dây cót lưỡi nịnh Lê khả Phiêu, còn đang ca vọng cổ chưa kịp xuống xề thì Phiêu lại kềnh và Nông đức Mạnh thay thế!!!
Tập đoàn Việt gian cộng sản đương quyền lấy tư tưởng Hồ chí Minh làm kim chỉ Nam.
Trần Độ cũng quyết noi theo con đường của Hồ chí Minh, nghĩa là coi việc tập đoàn Việt gian cộng sản nắm quyền cai trị là đương nhiên đúng như vậy, là tất nhiên phải như vậy. Cái mô hình "dân chủ đa đảng" trong đầu Trần Độ cũng giống như của Hồ, nghĩa là có vài đảng vệ tinh như kiểu Dân chủ và Xã hội xưa kia, để rồi cài đảng viên cộng sản vào lãnh đạo giúp cho thêm thắm thiết tình đoàn kết. Thí dụ như đảng viên cộng sản Hoàng minh Chính từng làm tổng thư ký đảng Dân chủ, và các bọn khác như Nguyễn thành Lê, Cù huy Cận, Phạm Hồng, Nguyễn việt Nam v.v. làm ủy viên trung ương của đảng Dân chủ. (Nguyễn thành Lê sau là ủy viên trung ương đảng cộng, phụ trách trưởng ban đối ngoại trung ương; Cù huy Cận là ủy viên thường vụ đảng đoàn cộng sản của bộ văn hóa thông tin; Phạm Hồng sau giữ ghế phó chủ nhiệm ủy ban liên lạc văn hóa với nước ngoài kiêm bí thư đảng đoàn cộng sản; Nguyễn việt Nam sau 4-1975 vào Sài-gòn là ủy viên thành ủy cộng sản kiêm chủ tịch hội đồng nhân dân thành phố Sài-gòn; còn Hoàng minh Chính xin đi Nga-xô học và về là Viện trưởng Viện triết học Marx-Lê).
Sau khi bị đá đít ra khỏi quyền lực, sự đấu tranh của Trần Độ chỉ là chống cách thức lãnh đạo của tụi đá đít Trần Độ, vì Trần Độ cho rằng như thế sẽ làm hại uy tín của đảng cộng. Nghĩa là Trần Độ muốn được có quyền lực trở lại để giữ uy tín cho đảng cộng bằng cái mô hình xã hội chủ nghĩa na ná như của Đặng tiểu Bình (chắc là không dùng xe tăng đè chết những người đòi tự do dân chủ như Đặng đã làm ở Thiên-an-môn, mà sẽ dùng xe lu (xe lăn đường) đè chết cho nhuyễn xương thịt với nhau hơn!!!). Một tên tướng quân phiệt, tắm máu dân trong suốt 57 năm, lại có thể "ngộ" về dân chủ?! Nói vậy chẳng khác nào "tú Bà" của Nguyễn Du về già "hoàn lương" (bằng tuyên bố mà thôi)!!!
Trần Khuê thì ca ngợi Hồ chí Minh, nâng lên thành chủ nghĩa.
Cả ba đều thờ chung "một thần" là Hồ, cùng là đồng đạo, đạo hữu cả, cho nên cả bọn chúng đều có quan niệm về dân chủ y hệt nhau, nghĩa là dân chủ cuội!!!
Chỗ khác nhau là Trần Độ bị đá ra khỏi quyền lực, Trần Khuê đang mê tiếng tăm và quyền lực. Có thế thôi!!! Còn nếu Trần Độ vẫn có quyền lực, Trần Khuê được chia sẻ quyền lực thì bọn chúng chẳng bao giờ chống nhau mà "úm ba la, ba ta đoàn kết"!
Bây giờ xin chuyển qua một nhân vật "đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam" nữa, từng được vài anh chàng thầy bói sờ voi ở hải ngoại cung kính nâng lên là "chí sĩ", là "đại trí tuệ"!!! Đó là tiến sỹ Nguyễn thanh Giang.
Đây là một thứ tiến sỹ, trí thức điển hình trong lò nướng Ba-đình mà ra: tham vọng lộ liễu; thích "thấy sang bắt quàng làm họ"; đường lối "đầu voi đuôi chuột"; tư duy sôi thịt tiên chỉ đình làng" và v.v.
Cái tham vọng, khoe khoang lộ liễu của Nguyễn thanh Giang là ở chỗ chẳng biết phân biệt thời điểm, chỗ nào cũng nói đến cái tôi một cách lố bịch, chẳng biết ngượng ngập là gì! Hết khoe là bạn của Trần đức Lương, lại là bạn của Trần Độ. Nào là "góp ý" cho Trần Độ chôn xác ở quê Thái-bình, đừng thèm để chôn ở Mai-dịch. Khi viết về Lê chí Quang thì ngay đầu dòng đã khoe là tự Lê chí Quang đến xin được làm quen. Chuyện này chẳng ăn nhập gì với việc phản đối vụ bắt Lê chí Quang. Rồi y như trong một cuộc họp tổ công đoàn cơ quan, ở ngoài Bắc trước đây, để bình bàn xem ai được mua "quần đùi" hay "áo may-ô" phân phối, Nguyễn thanh Giang khoe đủ thứ nào lao động tiên tiến, chiến sỹ thi đua, thậm chí cả việc cơ sở đề nghị phong anh hùng (xin chú ý là mới đề nghị chứ chưa được chấp nhận; và nếu như có được chấp nhận thì cũng qua vài cấp nữa thanh lọc. Thông thường cả chục ngàn trường hợp mới có một trường hợp được duyệt là chiến sĩ thi đua toàn quốc mà thôi. Còn anh hùng thì khó hơn sổ số giải jackpot rollover). Ấy thế mà cũng khoe "cái chưa thể có được"!!! Háo danh đến lẩm cẩm u mê như vậy thì làm sao chân thành đấu tranh cho dân chủ được!!! Xin được trích lại ý kiến của ông Bùi Tín (mà có thể nói là của hầu hết những người còn nhân phẩm, dù chỉ là quét rác, bán rau chứ chẳng cần phải có bằng tiến sỹ) về cái "trò khỉ" đó như sau:
"Ai cũng cho việc bình bầu tiên tiến và ưu tú là hình thức đến mức nhảm nhí, nhưng nó vẫn tồn tại bền bỉ. Vì ở mọi nơi, trong thời đại mới này, đã có quy ước ngầm là làm cho xong chuyện; và thế là cả làng đều là tiên tiến hết, 100 phần 100 tiên tiến là chuyện bình thường!"(39)
Ai cũng biết Trường Chinh là Mao-ít trăm phần trăm, cả từ tên cho đến tư duy; là kẻ chịu trách nhiệm về "cải cách ruộng đất", "chấn chỉnh tổ chức", "đánh nhân văn - giai phẩm", "cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh", "hợp tác hóa ở nông thôn"; là kẻ soạn nghị quyết 9 (khóa 3) thân Tàu cộng; là kẻ đánh cho Kim Ngọc (bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phú) về tội "khoán sản phẩm đến các hộ nông dân"; là kẻ cách chức bộ trưởng bộ đại học và trung học chuyên nghiệp của giáo sư Tạ quang Bửu vì giáo sư Bửu không chịu "chính sách phân biệt lý lịch" trong thi tuyển vào đại học trong nước và cho đi học nước ngoài; là kẻ ngay 1-5-1975 đã lớn tiếng ra lệnh "miền Nam phải tiến lên chủ nghĩa xã hội" và v.v…, ấy vậy mà khi Trần Quỳnh (trợ lý của Lê Duẩn) viết sách chê bai Trường Chinh thì Nguyễn thanh Giang đã sủa ầm lên là Trần Quỳnh "bôi nhọ đồng chí Trường Chinh". Với cái não trạng này liệu Nguyễn thanh Giang có thể chân thành đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam không?(!!!)
Về tội ác của tập đoàn Việt gian cộng sản dâng đất, dâng biển cho Tàu cộng, sự việc rành rành như vậy mà Nguyễn thanh Giang "lập lờ" chạy tội cho bọn chúng bằng cách tuyên bố rằng chúng bị lừa!!!(???)
Cố tình dâng đất và bị lừa để mất đất là hoàn toàn trái ngược với nhau. Cách tuyên bố như vậy của Nguyễn thanh Giang, trẻ em lớp một cũng có thể hiểu được Nguyễn thanh Giang chống hay chống đỡ cho tập đoàn Việt gian cộng sản bán nước! Qua việc này, bộ mặt Nguyễn thanh Giang chống ai, tưởng đã quá rõ.
Trong bài gửi cho Lê hồng Anh, bộ trưởng mới của Việt gian cộng sản, Nguyễn thanh Giang khoe khoang theo kiểu là đàn anh, là thế hệ trước của Lê hồng Anh. Cũng với cách nhìn đó, khi bốc thơm Trần Độ thì kể nào là Trần Độ đã là tướng thì Lê đức Anh mới là thượng tá và v.v. Lối tư duy tiên chỉ đình làng như vậy thì Nguyễn thanh Giang làm sao hiểu nổi ở Mỹ hiện nay, phó tổng thống Dick Cheney từng là bộ trưởng quốc phòng thời Bush cha, thế mà nay chịu dưới quyền Bush con!
Hà-nội trước đây, cái tên Nguyễn thanh Giang dường như chẳng có ma nào để ý đến. Người ta thường nhắc đến những nhân vật như Nguyễn đình Tứ, Nguyễn văn Hiệu, Nguyễn văn Đạo, Hoàng Phương, Phan đình Diệu, Vũ đình Cự, Thái văn Trừng, Lương đình Của, Phan huy Lê, Trần quốc Vượng, Thái bá Vân, Từ Chi, Tô ngọc Thanh, Đặng xuân Kỳ, Ca lê Thuần, Vũ hoàng Địch, Phong Hiền, Nguyễn phúc Giác Hải v.v. Đặc biệt với nước ngoài, người ta khen kiến thức uyên bác của giáo sư Từ Chi và nhà phiên dịch Đặng vĩnh Thiên (một số giáo sư trường đại học Yale có qua Việt Nam); khen nhà ngôn ngữ Cao xuân Hạo, khen các bác sỹ Trương công Quyền, Nguyễn tài Thu.
Chính vì chẳng ai biết đến "cái đuôi" của Trần đức Lương là Nguyễn thanh Giang nên Nguyễn thanh Giang cứ mặc cảm tự ty, chủ động "tự ca ngợi" loạn xà ngầu đến lố bịch!
Một người háo danh, thấy "sang bắt quàng làm họ", lố bịch đến mức con trai của Trần Độ cũng từ chối không muốn gặp mặt thì làm được cái trò gì trong công cuộc đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam. Những kẻ đó, mà cờ đến tay, gần như chắc chắn sẽ quay cán cờ mà đánh dân rồi và lại lên mặt khoe đủ thứ bà rằn về cái tôi rất đáng ghét!
*****

Tuy nhiên, nếu loại bỏ những phần tử cơ hội kể trên, quả rằng ở Việt Nam hiện nay có một số nhân vật trẻ tuổi rất có lòng vì nước. Đó là:
1) Lê chí Quang, rất dũng cảm kêu gọi "Cảnh giác Bắc triều". Vì thiếu thông tin, tài liệu trung thực, nên Lê chí Quang có một số quan niệm chưa chính xác. Một khi được tự do nghiên cứu, cập nhật thông tin, tài liệu, chắc chắn con người có nỗi đau và lo cho đất nước như thế sẽ tự điều chỉnh được quan niệm của mình về thực trạng của đất nước trong quá khứ và hiện tại.
2) Nguyễn vũ Bình, một nhà báo trẻ, dám giẫm lên điều 4 hiến pháp cộng sản 1992, đòi lập một chính đảng. Cũng trong cảnh bị bưng bít và đói thông tin như Lê chí Quang, nên Nguyễn vũ Bình, chưa biết đến lũ "xanh vỏ đỏ lòng", lũ "cò mồi" ở hải ngoại nên còn chưa chín chắn khi tiếp cận thông tin từ ngoài vào. Thí dụ cụ thể như việc khen quyển "Tổ quốc ăn năn" của một thò lò chính trị, táo bón sử liệu!
3) Phạm hồng Sơn, một trí thức trẻ với đúng nghĩa trí thức (chứ không phải là nhân viên chuyên môn cao cấp), đã sáng suốt khi "lẳng lặng" quảng bá tư tưởng dân chủ. Và, cũng rất dũng cảm biết hậu quả của việc làm đó sẽ ra sao.
4) Nguyễn khắc Toàn, một thương gia thành công, một người rất khiêm nhường, không ồn ào kiểu thùng rỗng như Nguyễn thanh Giang. Hoạt động giúp những người biểu tình đòi ruộng, đòi đất, chứng tỏ Nguyễn khắc Toàn có nhãn quan chính trị sắc bén, thấy được lực lượng chủ lực đấu tranh dành dân chủ ở Việt Nam hiện nay chính là "cái đám quần chúng nông dân bị bóc lột; cái đám thị dân nghèo khổ, ăn bữa sáng lo bữa tối" ấy mới dám đem thân mình dành lấy quyền sống, quyền làm chủ, chứ không phải như loại Nguyễn thanh Giang, cho con gái đi học nước ngoài, làm việc ở Anh-quốc, đời sống no đủ, ngồi phán nhăng phán cuội để cuối cùng cũng ngoan ngoãn đi bầu cử quốc hội ngụy quyền cộng sản!
5) Linh mục Nguyễn văn Lý, một người can đảm dấn thân, sáng suốt nhìn rõ bộ mặt Việt gian lưu manh của tập đoàn cộng sản cầm quyền hiện nay.
Sự đoàn kết của giáo dân ở An-truyền, Nguyệt-biểu là một minh chứng phương pháp vận động quần chúng đứng lên đấu tranh dành quyền tự do dân chủ của linh mục Nguyễn văn Lý rất hiệu quả.
6) Các vị lãnh đạo tinh thần khác, ngoài các sư sãi và linh mục quốc doanh, cũng là những người đấu tranh không mệt mỏi.
7) Trong thực tế cũng như về mặt lý luận, lực lượng đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam hiện nay chính là quần chúng lao khổ ở nông thôn, thành thị, miền núi. Vì là nạn nhân cùng cực nhất bởi sự thống trị của tập đoàn Việt gian cộng sản khát máu; bởi sự bóc lột của giai cấp tư sản đỏ câu kết với tư bản ngoại quốc, nên họ là lớp người đã, đang và sẽ đem cả sinh mạng của mình dành lại quyền tư do làm người!
Muốn đấu tranh xây dựng quê hương Việt Nam thành một nước tự do, dân chủ, nhân bản, phồn vinh, theo kịp đà tiến bộ mọi mặt của nhân loại, cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản xâm lược can liên minh hỗ trợ cho nhau đối với những lực lượng kể trên ở quốc nội. Nghĩa là như ông cha ta đã dạy: "Chọn mặt gửi vàng".
Quên quá khứ, xóa bỏ hận thù
Tình trạng Việt Nam hiện nay có thể chia làm 3 thành phần:

1- Những người Việt Nam ở trong nước hiện vẫn phải chịu sự thống trị độc tài và tàn bạo của đảng Việt gian cộng sản; khoảng 80 triệu;
2- Cộng đồng người Việt tỵ nạn xâm lược của Việt gian cộng sản đang sinh sống ở nước ngoài; gần 3 triệu;
3- Đảng Việt gian cộng sản với trên 2 triệu tên.
Âm mưu nhuộm đỏ không chỉ toàn nước Việt Nam, mà gồm cả hai nước láng giềng của Việt Nam là Lào và Căm-bốt, được biểu hiện qua việc ra đời của đảng cộng sản Đông dương từ 1930.
Âm mưu triệt hạ các thành phần nồng cốt của Việt Nam về mọi mặt từ sản xuất nông nghiệp, công thương nghiệp, tiểu thủ công, quản lý hành chính, văn hóa nghệ thuật, truyền thống dân tộc, giáo dục đào tạo v.v. để dễ dàng bị thôn tính toàn diện cả đất đai, sông biển; cả thân xác và tâm hồn con người bởi đế quốc đỏ Nga-Tàu, núp dưới cái áo chủ nghĩa quốc tế vô sản Marx-Lê, do tập đoàn Việt gian cộng sản thực hiện, bị phơi bày qua cái gọi "Xô-Viết Nghệ tĩnh 1930-31" với khẩu hiệu:
"Trí, phú, địa, hào
Đào tận gốc, trốc tận rễ"

và đảng kỳ của đảng cộng sản Đông dương (12-1951 đổi tên thành đảng Lao động Việt Nam) chính là quốc kỳ của Nga-xô: cờ đỏ, búa liềm màu vàng ở góc trên. Sau này bị lật tẩy nên tập đoàn cầm quyền trong đảng Việt gian cộng sản sửa lại tý chút là cho búa, liềm màu vàng nằm ở giữa cờ đỏ.
Từ nguyên nhân ra đời của tổ chức đảng, từ đảng kỳ cho đến đường lối chính trị ngay từ phút đầu đã chỉ rõ rằng đảng cộng sản Việt Nam là một tổ chức Việt gian, công cụ bành trướng của đế quốc đỏ Nga-Tàu ra toàn khu vực Đông-nam-á. Danh xưng "mẫu quốc" của chủ nghĩa thực dân châu Âu được tô màu cho hấp dẫn thành "Anh Cả Nga-xô" và "Anh Hai Trung cộng", còn các nước nô lệ đỏ được đội cái tên là "nước bạn".


Phần 5
Những tên đặc công đỏ 



Không được quên quá khứ!
Chính nhờ truy tìm quá khứ mà ngày nay chúng ta có đủ nhân chứng, đủ tài liệu để chứng minh cho hiện tại và các thế hệ tương lai của Việt Nam hiểu rõ nguyên nhân sự tụt hậu của Việt Nam so với các nước láng giềng; sự mất đất, mất biển; tài nguyên thiên nhiên bị tàn phá, truyền thống của dân tộc bị xóa bỏ, bị lai căng; những đặc tính đặc thù của dân tộc bị tàn lụi; lịch sử dân tộc bị xuyên tạc; cộng đồng dân tộc chia rẽ; đầu óc sùng ngoại rất đáng lo ngại; sự hình thành cộng đồng người Việt gốc phía Bắc ở trong Nam; sự hình thành cộng đồng người Việt ở hải ngoại v.v…
Cái nguyên nhân đó chính là sự ra đời của cái gọi là đảng cộng sản Đông dương (1930) và hiện nay là sự tồn tại của đảng cộng sản Việt Nam!
Cho nên, những kẻ kêu gọi quên quá khứ đều nằm trong các thành phần sau đây:
1) Tập đoàn Việt gian cộng sản đang tiếm quyền thống trị ở Việt Nam;
2) Tụi tay sai cho tập đoàn Việt gian cộng sản, theo "voi hít bã mía";
3) Tụi có quyền lợi hoặc đang âm mưu tìm quyền lợi qua việc câu kết với tập đoàn Việt gian cộng sản;
4) Những người thiếu thông tin trung thực về cộng sản, nghĩa là bị ngộ độc thông tin bởi những ngòi bút hoặc táo bón thông tin, hoặc vô trách nhiệm và, cuối cùng là những ngòi bút bất lương;
5) Những người khiếp sợ bạo quyền, cúi đầu trước danh lợi.

Kêu gọi quên quá khứ có nghĩa là xóa bỏ môn sử học, khảo cổ học v.v… như kiểu Hồ chí Minh, khi nắm quyền thống trị Việt Nam, đã xóa bỏ bộ môn luật, xóa bỏ bộ tư pháp chăng?
Việc làm đó có lợi cho ai và hại cho ai?
Cho dù với động cơ nào đi nữa, việc kêu gọi quên quá khứ là một hành động bất lương, phản khoa học!!!
Thưa ông Bùi Tín,
[Ngụy quân VGCS Bùi Tín]
Ông có biết tại sao các kết luận của ông trong 2 cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" luôn luôn mâu thuẫn với hình ảnh sống động mà ông mô tả không? Và, có lúc ông bế tắc để kêu lên rằng: "Tôi chẳng sao lý giải nổi nữa!"(40) Cái điều ông không thể lý giải nổi đó là:
* Tại sao Hồ chí Minh khúm núm, ngoan ngoãn chấp hành mọi ý kiến của Stalin và Mao!
* Tại sao Hồ cùng toàn đảng cộng sản Việt Nam lại có "một thái độ thụ động vô lý, mất hết khả năng phản kháng và tự vệ!”(41)
* Tại sao những "Triết cố vấn", "Triệu cố vấn" và "Vương cố vấn" chuyên ngồi dựa vào ghế bành lớn, ưỡn bụng ra phía trước, có lúc gác đại cả 2 chân lên bàn, tay cầm ly rượu mao đài, nhổ nước bọt ồn ào xuống đất, để phán bảo cho những người nắm vận mệnh của đất nước Việt Nam. Thật thê thảm cho đất nước này!(42)
* Tại sao: "Ngay cả khi đảng phạm tội giết bừa hàng chục ngàn sanh mạng nhân danh chủ nghĩa Mác-Lênin và cách mạng vô sản, thì đảng vẫn cứ là vĩ đại! Đảng vĩ đại ngay cả trong sai lầm khủng khiếp nhất."(43)
* Tại sao: "Dân chủ trong Đảng cộng sản Việt Nam là con số không, ở trong xã hội cũng lại là một quả trứng lớn!"(44)
* Tại sao là chủ tịch nước kiêm chủ tịch đảng mà: "ông Hồ không có toàn quyền quyết định. Có một thế lực cao hơn ông! Ông Mao." (45) Vì: "trong thế giới cộng sản, quan hệ anh em là quan hệ chỉ huy, lãnh đạo. Lời khuyên, gợi ý bao giờ cũng được hiểu ngầm là mệnh lệnh."(46) Và, ông cũng viết rằng: "Cuốn tóm tắt lịch sử Đảng cộng sản Liên-xô dày cộp, khổ lớn, hơn 600 trang, do Stalin đích thân duyệt và sửa, do nhà xuất bản Sự thật in đi in lại đến hơn chục lần, là cuốn sách gối đầu giường của các cán bộ cộng sản cấp cao ở Việt Nam. Cuốn sách này được ông Hồ chí Minh dịch ra tiếng Việt khi ông còn ở trong hang Pắc-bó, tỉnh Cao-bằng."(47) và v.v…
Rồi ông lớn tiếng tự hỏi: "Và cách mạng, hy sinh, chiến đấu để làm gì?"(48)
Thưa ông Bùi Tín,
Nếu ông truy tìm quá khứ, cố nhớ lại quá khứ (như những điều ông đã mô tả lại trong 2 cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" của ông) với tinh thần phản tỉnh thật lòng, nghĩa là đúng thì nói và viết là đúng; sai thì nói và viết là sai; đừng lo sợ về việc "tự phủ định chính mình về tất cả mọi mặt"(49) thì ông đã có thể thanh thản giải đáp được mọi thắc mắc và cởi bỏ hết bế tắc trong đầu. Mọi chuyện rất đơn giản. Cái không đơn giản nằm ngay trong đầu ông. Đó là viết "Mặt thật" bằng một nửa con tim; nhìn "Mặt thật" bằng một mắt nhắm, một mắt mở! Cho nên "Hoa xuyên tuyết" của ông vẫn còn bị chìm trong tuyết, chưa trồi lên được khỏi mặt tuyết!!! Giống như phần bên kia của Mặt Trăng, không thể quan sát bình thường được, cũng không thể hư cấu rằng bên này có Cuội và Cây đa thì bên kia có vợ Cuội và Cây đề. Phải dùng vệ tinh, khách quan và khoa học mới thấy được trọn vẹn mặt thật!
Cái phần còn thiếu nghiêm trọng trong "Mặt thật" của ông là, trước khi phơi bày cái "Mặt thật" thì, ông vẫn sử dụng nhãn quan của một người cộng sản, coi việc Hồ chí Minh du nhập chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam là do lòng yêu nước và mục tiêu lý tưởng của đảng cộng sản là đúng, chỉ có cán bộ làm sai!(?)
Nếu ông nhớ lại quá khứ thì ông sẽ thấy rằng, cho đến ngày xuống tàu xuất ngoại, Hồ chí Minh chưa bao giờ tham gia một phong trào yêu nước nào. Đặt chân tới Pháp, việc đầu tiên của Hồ là làm đơn xin học ở trường thuộc địa. Vì bị khước từ, Hồ mới lang thang kiếm sống và may mắn gặp các cụ Phan văn Trường, Phan chu Trinh, Nguyễn thế Truyền khai tâm cho Hồ về lòng yêu nước và cho Hồ dùng cái tên chung của cả nhóm là Nguyễn ái Quốc. Những trí thức tiền bối đó đã dẫn dắt Hồ vào con đường chính trị, để rồi Hồ gia nhập đảng Xã hội của Pháp và sau đó tham gia vào nhóm phân hóa thành đảng cộng sản Pháp mà cả Hồ lẫn cái tập đoàn cộng sản Việt Nam của Hồ vẫn tự hào. Khổ quá, ông đương kim tổng thống Pháp Chirac được bầu ra chắc chắn cũng nhờ nhiều lá phiếu cửa cử tri gốc Việt. So sánh như thế, hy vọng ông hiểu cho.
Bước vào hoạt động chính trị, người nào cũng xuất phát từ cái chung và cái riêng. Có người thì cái chung là chủ đạo và lấn át hoặc triệt tiêu cái riêng. Ngược lại, có kẻ thì cái riêng nhanh chóng tiêu diệt cái chung. Hồ chính là loại người như vậỵ
Là một người dân ở xứ thuộc địa, Hồ được công khai và tự do hoạt động chính trị giữa thủ đô của "tên Đế quốc, thực dân"; tự do thành lập cái tổ chức để tiêu diệt "đế quốc, thực dân", chẳng lẽ Hồ không có khả năng phân biệt với cái "Mặt thật" ở Nga-xô, là nơi Hồ chỉ được phép tuân lệnh tuyệt đối.
Với động cơ yêu nước thì cái "Mặt thật" ở Nga-xô khi ấy không thể hấp dẫn Hồ được.

Hồ bước chân tới Nga-xô là lúc Lê-nin chết. Ma to, cỗ lớn, cái lăng chình ình ở Quãng Trường Đỏ của Lê-nin thật hấp dẫn đối với Hồ. Đó là lý do Hồ một lòng một dạ với Nga-xô, với "lãnh tụ" Stalin. Bởi chỉ có dựa vào cái mẫu quốc đỏ này, Hồ mới hy vọng trở thành cái bóng của Lênin - Stalin ở Việt Nam. Nghĩa là, khi cái tên Nguyễn ái Quốc đổi sang cái tên Nga là Line, thì Hồ đã chấp nhận đưa Việt Nam vào vòng chư hầu của Nga-xô. Từ đó, mọi hoạt động của Hồ đều do động cơ vị kỷ cá nhân dẫn dắt. Hồ đã bán cụ Phan Bội Châu cho mật thám Pháp; đã phá cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thái Học; đã ngoan ngoãn nghe lệnh Nga-xô đổi tên đảng cộng sản Việt Nam thành đảng cộng sản Đông dương. Và, như ông cũng đã viết, khi ở hang Pắc-bó (Cao bằng), Hồ đã cần mẫn dịch cuốn tóm tắt lịch sử đảng cộng sản Liên-xô, cũng như cuốn Tỉnh ủy bí mật (cũng của Nga-xô) làm tài liệu học tập cho đảng viên cộng sản. Và, hành động Việt gian cụ thể nữa là chưa cầm quyền mà dám đặt tên dòng suối chảy qua Pắc-bó - một bộ phận lãnh thổ của Việt Nam - là Lênin!!!
Như vậy là cái tên của đảng cũng do Nga-xô đặt cho; tài liệu vỡ lòng cho đảng viên học là lịch sử đảng cộng sản Liên-xô - chứ không phải lịch sử Việt Nam - và mọi đường lối, chính sách đều do Nga-xô và Tàu cộng chỉ đạo. Hồ và cái đảng cộng sản của Hồ chỉ biết vâng, dạ, chấp hành, cho dù tổn hại tới sinh mạng, đất đai, tài nguyên thiên nhiên, truyền thống văn hóa dân tộc của Việt Nam v.v…
Thưa ông Bùi Tín,
Bộ mặt Việt gian của Hồ và cái tổ chức gọi là đảng cộng sản Việt Nam đã rõ rành rành như vậy, mà vì động cơ cá nhân, ông không dám "tự phủ định chính mình" nên mới bế tắc la lên rằng: "Tôi chẳng sao lý giải nổi nữa!"(50) Nhưng rồi, con người trung thực của ông lại bắt ông phải thừa nhận một "Mặt thật" mà rất nhiều người chỉ vì quên quá khứ nên không thấy, rằng:
"Vai trò của chính phủ kháng chiến (tức Chính phủ Liên hiệp) là sâu và rộng." Tổ chức của chính phủ rất gọn, nhẹ. Các bộ trưởng, thứ trưởng phần lớn là chuyên gia, trí thức, trong đó số còn ở ngoài đảng, có thực quyền không phải là ít. Đó là các ông Phan Anh, Trần đăng Khoa, Nguyễn Xiển, Nghiêm xuân Yêm, Tạ quang Bửu, Trịnh văn Bính, Lê đình Thám, Hoàng minh Giám, Trần duy Hưng, Phan kế Toại, Lê văn Hiến, Đặng phúc Thông, Nguyễn văn Huyên, Tôn thất Tùng, Trần hữu Tước, Trần công Tường, Trần đại Nghĩa, Hồ đắc Di." (51) Và, ông viết tiếp: "Chính quyền mới ở Nam bộ được tuyển chọn trong những trí thức yêu nước khá xuất sắc. Đó là ông Phạm văn Bạch, chủ tịch ủy ban kháng chiến hành chánh Nam bộ, từng đậu tiến sỹ luật học và cử nhân văn khoa ở Pháp về; bác sỹ Phạm ngọc Thạch tốt nghiệp y khoa Paris; giáo sư toán học Phạm Thiều; giáo sư văn học Ca văn Thỉnh; giáo sư vật lý Đặng minh Trứ được đào tạo ở Pháp; kiến trúc sư Huỳnh tấn Phát; nhà luật học Trần công Tường; Kỷ sư Nguyễn ngọc Nhật và kỹ sư Nguyễn ngọc Bích tốt nghiệp trường Bách khoa Paris; kỹ sư công nghiệp Kha vạng Cân; nhà luật học Phạm ngọc Thuần (anh ruột của đại tá Phạm ngọc Thảo); luật sư Thái văn Lung. Ông Phạm văn Chương, đốc phủ sứ Sài-gòn nổi tiếng về am hiểu luật pháp và thanh liêm cũng tham gia chính quyền mới.(52)
Rồi ông cũng thừa nhận một "Mặt thật" khác, đó là: "Hồi ấy, ở Việt Bắc, cái thế chính trị của anh "Nhân", tức ông Trường Chinh, còn khá là khiêm tốn. Vai trò của Đảng còn chưa sâu, chưa rộng."(53)
Nghĩa là, trước khi Tàu cộng làm chủ lục địa (1949), trước khi Hồ lén lút sang Tàu cộng và Nga-xô để xin chỉ thị của Stalin và Mao, thì như ông nhận định:

- Vai trò của Chính phủ Liên hiệp "là sâu và rộng" (54);
- Vai trò của Đảng (tức cộng sản) "còn chưa sâu, chưa rộng".(55)

Rồi khi Tàu cộng làm chủ lục địa, cuối năm 1950 Hồ lén lút qua gặp Mao và qua Nga-xô gặp Stalin, để đến 1951 cho ra mắt trở lại cái gọi là đảng cộng sản Đông dương dưới một cái tên hiền lành hơn: "đảng Lao động Việt Nam"
Nắm được lực lượng vũ trang rồi, Hồ cho đảng cộng sản, công cụ tay sai của Nga-xô và Tàu cộng tái xuất giang hồ để thi hành đường lối chính trị Việt gian để lái cuộc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thành cuộc xâm lược đỏ bằng:
"Trí, phú, địa, hào
Đào tận gốc, trốc tận rễ"
Chỉ có khác là không nói huỵch toẹt như vậy, mà che đậy bằng những mỹ tự cách mạng!!! Đó là "đấu tranh chính trị" (tức diệt trí thức, sau đó đợt 2 gọi là cách mạng văn hóa tư tưởng, điển hình là vụ Nhân văn - Giai phẩm); "Truy thuế công thương" (tức diệt phú thương, đợt 2 làm năm 1960 gọi là cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh); "giảm tô, giảm tức" (tức là diệt nông dân, địa chủ; đợt 2 gọi là cải cách ruộng đất); và "chấn chỉnh tổ chức", tức diệt hào, các đợt tiếp nối là "chỉnh huấn mùa Xuân" và "ôn nghèo nhớ khổ". Nghĩa là cày lên, bừa lại toàn xã hội!
Một đất nước tồn tại, phát triển độc lập, tự chủ được chính là dựa vào bốn tầng lớp xã hội nói trên. Nay tất cả bị tiêu diệt, bị tha hóa, biến chất thì xã hội còn lại cái gì?
Thưa ông Bùi Tín,

Xã hội chỉ còn lại:

1) Công cụ của đế quốc đỏ Nga-Tàu dùng cai trị xứ thuộc địa đỏ. Đó chính là đảng Việt gian cộng sản.
2) Các tầng lớp nô lệ đỏ. Đó là trí nô, công nô, nông nô và binh nô.
Ngay từ lúc đặt chân tới Nga-xô (1924) Hồ đã tự nguyện làm Việt gian, tay sai của Nga-xô nên lúc chưa nắm được chính quyền đã âm mưu hãm hại những người yêu nước (cụ Phan Bội Châu là một thí dụ, cùng hàng 100 thanh niên khác với gia đình, họ hàng, bạn bè của họ mà Hồ đã qua Lâm đức Thụ, bán cho mật thám thực dân Pháp). Đến khi tham gia vào Chính phủ Liên hiệp, Hồ vẫn tiếp tục hãm hại, vu cáo, bôi nhọ những người yêu nước (như Lý Đông A, Trương Tử Anh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Trần Trọng Kim và thậm chí cả Phan văn Hùm, Tạ thu Thâu! Để rồi khi có cơ hội (Tàu cộng làm chủ lục địa cuối 1949), Hồ đã tuân lệnh mẫu quốc đỏ mà thanh trừng, khủng bố, làm thoái hóa toàn bộ nhân sự mà đại đa số không là cộng sản trong Chính phủ Liên hiệp mà ông thừa nhận là chuyên gia, trí thức, đang có vai trò sâu và rộng trong công cuộc lãnh đạo của Chính phủ Kháng chiến.
Với lòng dân lúc đó "tự tay đốt nhà kháng chiến chống Pháp", với sự cộng tác chân thành và hiệu quả của các nhân sỹ, trí thức, đảng phái, tổ chức tôn giáo v.v… Nếu Hồ không cam tâm làm Việt gian, tay sai cho Nga-Tàu, thì Việt Nam chắc chắn thành Hổ, thành Rồng từ lâu, đâu phải mất đất, mất biển cho Tàu cộng; dầu hỏa cho Nga cùng những món nợ è cổ cho các thế hệ sau!!!
Tất cả những sự việc nêu trên ông đều thấy và hiểu rõ ràng, cặn kẽ.
Nhưng, ông còn chưa đủ dũng cảm để thừa nhận rằng:

1) Hồ chí Minh từ đầu tới chân là một tên đại Việt gian;
2) Đảng cộng sản Đông dương trước kia, nay mang tên đảng cộng sản Việt Nam, là một tổ chức Việt gian; xưa là tay sai tự nguyện cho Nga-xô và Tàu cộng; nay là tay sai của Tàu cộng và các thế lực tài phiệt khác.
Chính vì ông đã có 47 năm phục vụ trong cái tổ chức Việt gian đó nên ông không dám gọi đúng tội danh của nó, cho dù ông đã day dứt thốt ra: "Công nhận một lầm lỡ, quả thật không dễ dàng, nhất là khi quả tạ của quá khứ còn quá nặng."(56)
Cho nên ông đã a dua kêu gọi: "Quên Quá Khứ!!! Xóa bỏ hận thù”

Những kẻ kêu gọi quên quá khứ cũng là tác giả của vế thứ hai: xóa bỏ hận thù.
Thưa ông Bùi Tín,
Ông có thấy việc kêu gọi "quên quá khứ, xóa bỏ hận thù" là một điều hoang tưởng, không thực tế và chẳng có ai, chẳng ở đâu thi hành được. Xin lấy ngay trường hợp của ông làm một thí du.
Cả hai cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" của ông đều chủ yếu nói về quá khứ. Gần thì vì sao ông lên đài BBC để phổ biến "Kiến nghị của một công dân"; xa thì nói những chuyện từ thuở cụ thân sinh ra ông lúc hàn vi; rồi chuyện chính phủ của cụ Ngô Đình Diệm "giết những người yêu nước" (chữ nghĩa của ông chỉ những tên khủng bố nằm vùng ở miền Nam Việt Nam, sau hiệp định Genève 1954 về Việt Nam, thi hành chủ trương bạo lực như nghị quyết 15 (khóa 2) của tập đoàn Việt gian cộng sản).
Nói thẳng ruột ngựa ra thì ông cũng như những kẻ kêu gọi quên quá khứ, xóa bỏ hận thù là chỉ muốn một phía thực thi cái điều lẩm cẩm đó mà thôi (chẳng lẽ lại nói là ngu cho chính xác). Cái phía phải thực thi đó chính là nạÏn nhân của cuộc chiến tranh do tập đoàn Việt gian cộng sản tiến hành.
Cái phía phải thực thi đó là nạn nhân của lũ chủ hàng, thành phần thứ ba đã đâm sau lưng những người chống xâm lược mà quan trọng nhất là quân lực Việt Nam Cộng hòa!
Chưa một ai được nghe rằng Nhân dân miền Nam và Nhân dân miền Bắc hận thù nhau để phải quên!
Chưa một ai được nghe rằng nhân dân Việt Nam ở hải ngoại và nhân dân Việt Nam ở trong nước hận thù nhau để phải quên!
Loại trừ những người Việt Nam bị bệnh tâm thần mới không biết rằng ai là tác giả bịa chuyện "đấu tranh giai cấp" để kích động sự hận thù "giả tạo" trong cộng đồng xã hội Việt Nam; kêu gọi "bạo lực cách mạng" để tạo ra hận thù đổ máu trong cộng đồng xã hội Việt Nam; thực thi chính sách ưu đãi giai cấp để phá hoại đoàn kết, hận thù cha truyền con nối trong cộng đồng xã hội Việt Nam; sản xuất ra các cụm từ "dân tề", "dân ngụy" để chia rẽ cộng đồng xã hội Việt Nam
Tác giả những tội ác đó chính là Hồ chí Minh và cái đảng Việt gian cộng sản. Và, ngay trong tổ chức Việt gian cộng sản của chúng, chúng cũng bịa ra "xét lại" và "giáo điều" để tìm cách hạ bệ nhau, tranh nhau độc quyền làm tay sai cho mẫu quốc đỏ (và bây giờ là Tàu cộng và các loại tài phiệt). Chúng bới móc lý lịch ba, bốn đời của nhau; moi móc mọi loại quá khứ từ tư tưởng, ngôn ngữ, sinh hoạt đến tín ngưỡng để kích động, nuôi dưỡng một sự hận thù mù quáng.
Đó là lý do vì sao tên ông là Bùi Thành Tín, vì muốn tránh liên quan với "quan lại phong kiến" phải bỏ cái họ Bùi để chỉ còn Thành Tín. Và, ra hải ngoại một thời gian dài mới hoàn hồn để nhận lại cái họ Bùi mà thành Bùi Tín. Và chắc ông cũng nhớ vì sao Quang Đạm (57) ở báo Nhân dân bị biến mất; bí thư tỉnh ủy Nguyễn từ Thoan lên và xuống cũng như sao chổi; và đại tướng Võ nguyên Giáp của ông thì phụ trách "đặt vòng chống thụ thai" v.v. Khi tranh ăn, chúng moi quá khứ của nhau để hận thù và xóa sinh mạng chính trị của nhau!!!
Tại sao bây giờ tác giả của việc moi quá khứ, kích động hận thù lại quay một trăm tám mươi độ?
Đó là vì, sau khi đảo chính âm thầm Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến, tập đoàn Việt gian cộng sản đã lèo lái cuộc kháng chiến chính nghĩa chống thực dân Pháp thành chiến tranh giành thuộc địa giữa thực dân đỏ Nga-Tàu với thực dân Pháp bằng xương máu của nhân dân Việt Nam. Sau khi chiếm được miền Bắc Việt Nam, chúng đã bần cùng hóa toàn dân, tập trung nhân lực, vật lực, tài lực vào tay tập đoàn Việt gian cộng sản các cấp và lại bắt đầu tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam Cộng Hòa và đặt ách thực dân đỏ lên cả hai miền Bắc và Nam Việt Nam từ 30-4-1975. Sự giao lưu Nam-Bắc đã cho nhân dân Việt Nam ở hai miền nhận diện được đâu là chính, đâu là tà. Và, một cuộc vượt biên tỵ nạn cộng sản xâm lược ở cả hai miền của Việt Nam đã làm chấn động lương tri toàn thế giới.
Cộng đồng người Việt ở hải ngoại hình thành. Quân lực Việt Nam Cộng Hòa thoát thai từ những thành phần ly khai khỏi bàn tay dra-cu-la Hồ chí Minh từ 1948. Đó là lực lượng chống xâm lược đỏ đầu tiên của Việt Nam. Đó là lực lượng duy nhất chống xâm lược: cả thực dân Pháp; cả Việt gian cộng sản, công cụ xâm lược của thực dân đỏ Nga-Tàu; và cả ngay chính quân xâm lược Tàu cộng trong việc bảo vệ hải đảo (1974). Thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa còn ở Việt Nam vẫn bị khốn khổ, phân biệt đối xử, trả thù hèn hạ từ 4-1975 đến nay là gần 30 năm của đời người!!!
Quân lực VNCH đã đổ nhiều máu xương để bảo vệ an toàn, tự do cho nhân dân Việt Nam, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc.
Quân lực VNCH được đào tạo chính qui, nghệ thuật chỉ huy và tác chiến sắc bén và hiệp đồng. Từ sỹ quan đến chiến sỹ đều tận tụy và dũng cảm.
Ấy thế mà lại có ngày quốc hận 30-4-1975!!!(???) Tại sao?
Ngoài nguyên nhân quốc tế ra, lỗi lầm quốc hận không do những người cầm súng mà do những người cầm bút, những người làm chính trị!
Những người cầm súng đã hoàn thành oanh liệt nhiệm vụ trước nhân dân và Tổ quốc. Biết bao nhiêu người đã hy sinh mạng sống; biết bao người đã tuẫn tiết như các anh hùng Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn Văn Long, Ngụy Văn Thà, Phạm Phú Quốc; biết bao người giữ khí tiết trong nhà tù của tập đoàn Việt gian cộng sản như trung úy Võ Văn Tưng; người tù kiệt xuất, đại úy Nguyễn Hữu Luyện; người tù bất khuất Lý Tống v.v.
Còn những người làm chính trị? Nhiều kẻ ấu trĩ, sôi thịt như kiểu Hồ hữu Tường (xin treo cờ rũ khi Hồ chết); như Ngô công Đức, Kiều mộng Thu, Dương văn Ba, Nguyễn văn Kim, Nguyễn Khánh, Trần văn Đôn, Nguyễn văn Thiệu, Dương văn Minh v.v…
Đáng buồn nhất là những người cầm bút. Họ đã trốn trách nhiệm cầm súng, tìm cách du học. Khi ở nước ngoài thì tham gia "nhóm sinh viên tả phái", khi về nước thì làm con cua để bàn ngang, "lập thành phần thứ ba" (điển hình là Đoàn viết Hoạt). Nhiều bậc khoa bảng chỉ lo bàn nhăng, bàn cuội (như giáo sư Nguyễn văn Trung, khen chủ nghĩa Marx) mà không chịu truy tìm quá khứ, phân tích hiện tại để chứng minh bộ mặt tay sai cho thực dân đỏ của tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh, nêu cao cuộc chiến đấu chính nghĩa chống xâm lược đỏ của Quân lực VNCH. Mơ mơ hồ hồ, hết gọi là cuộc chiến quốc-cộng, rồi lại cuộc chiến ý thức hệ và còn dựng đứng ra cái gọi là nội chiến huynh đệ!!!(???)
Không nhận diện được kẻ thù một cách rõ ràng trắng đen thì cường độ đánh địch không mạnh, hiệu quả đánh địch không đạt.
Chính vì lẫn lộn giữa chiến tranh chống xâm lược với nội chiến huynh đệ nên mới dung túng và nuôi dưỡng dòng nhạc Việt gian Trịnh công Sơn đến mức phải tỵ nạn xâm lược ở hải ngoại rồi mà còn "bào chữa, thoa son" cho Trịnh công Sơn như những cây bút Đặng Tiến, Ngã Hạnh và còn thâu băng, truyền bá dòng nhạc bán nước đó. Cái dòng nhạc đó đã đâm vào biết bao trái tim của chiến binh VNCH!!! Và, Đặng Tiến còn có thể trắng trợn viết về việc chiều 30-4-1975, Trịnh công Sơn ôm đàn lên đài Sài-gòn do Việt gian cộng sản chiếm giữ để hát bài hắn sáng tác chào mừng những người anh em ngụy quân cộng sản xâm lược của hắn, mang tên "Nối vòng tay lớn", rằng: "Thật ra anh có hát hay không hát thì chế độ VNCH cũng tan rã". Ngồi tại Pháp viết câu đó, chắc có một lúc nào đó Đặng Tiến sẽ có thể viết: "Thật ra thống chế Pétain có lập chính phủ thân Hitler hay không thì nước Pháp vẫn bị quân phát-xít Đức chiếm đóng". Nói thật chứ, Đặng Tiến viết câu trên chỉ chứng tỏ đầu óc ngu tối, sau này con cháu Đặng Tiến xấu hổ về ngòi bút của cha, ông. Còn viết câu sau bị Tây bộp tai là cái chắc!

Thưa ông Bùi Tín,
Cho dù hai cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" của ông có đưa ra nhiều hình ảnh về cái gọi là "chủ nghĩa cộng sản" mà Hồ áp dụng ở Việt Nam, nhưng những thực tế đó vẫn chưa làm ông giác ngộ rằng cái gọi là chủ nghĩa cộng sản đã, đang và sẽ chẳng mang lại lợi ích gì cho nhân dân và đất nước Việt Nam. Nó chỉ đem đến cho Việt Nam thân phận chư hầu của Nga-Tàu, hay, nói cho rõ hơn, nó đã khiến Việt Nam thành thuộc địa đỏ một cách tự nguyện.
Nhờ khoác cái áo chủ nghĩa" này nọ mà ngay những người, đã và đang chống cuộc xâm lược đỏ, vẫn chưa gọi đúng tên của nó, nêu đúng tội của nó. Vì thế quần chúng nhân dân Việt Nam, bị mơ hồ theo, hiểu lầm rằng đây là cuộc chiến của hai quan niệm yêu nước, xây dựng nước khác nhau. Cho nên mới gọi là chiến tranh "quốc-cộng", hoặc nói toạc ra là chiến tranh "ý thức hệ" (nghĩa là cộng sản và phi cộng sản hay còn gọi là tư bản); để rồi còn lầm lẫn nặng mà gọi là chiến tranh "huynh đệ"!!!(?)
Nhân dân Việt Nam đã không được cung cấp thông tin đầy đủ và cụ thể để có thể nhận diện được rằng Hồ và cái đảng cộng sản của Hồ đã tự nguyện gia nhập đạo quân xâm lược đỏ. Đó là lý do tại sao mọi đường lối chính sách áp dụng ở Việt Nam và ngay cả các nghị quyết của đảng cộng sản Việt Nam, kể cả nghị quyết của đại hội đảng, đều phải dựa vào các nghị quyết của Nga-xô hoặc Tàu cộng, từ kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao cho đến văn hóa, giáo dục v.v. mà soạn thảo ra, chứ không phải là dựa trên thực tế nhu cầu và quyền lợi của nhân dân và đất nước Việt Nam!
Nói cho rõ hơn, nghĩa là mọi đường lối chính sách đối nội, đối ngoại do Hồ và đảng cộng sản Việt Nam soạn thảo và thực hiện ở Việt Nam đều nhằm phục vụ cho quyền lợi dài hạn và ngắn hạn của Nga-xô và Tàu cộng. Nghĩa là dù nhân dân Việt Nam phải đói, phải chết; đất đai, sông biển Việt Nam bị mất; tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam bị hủy hoại; truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam bị xóa bỏ; lịch sử Việt Nam bị bóp méo, xuyên tạc; uy tín của Việt Nam trên quốc tế bị giảm sút và v.v… đều không quan trọng trong tâm khảm của Hồ và tập đoàn Việt gian cộng sản. Trước đã như vậy. Nay vẫn như vậy. Và nếu bọn chúng còn nắm quyền cai trị Việt Nam thì cũng sẽ vẫn như vậy!
Trong khi đó, ở miền Nam Việt Nam, các chính phủ Ngô đình Diệm, Nguyễn cao Kỳ cho đến Nguyễn văn Thiệu có nhiều khuyết điểm về mặt này mặt nọ, nhưng rõ ràng và chắc chắn là không dựa vào chương trình của các đảng Cộng hòa hay Dân chủ của Mỹ để vạch chính sách. Trong QLVNCH, không ít cố vấn Mỹ bị ăn đòn chứ chưa bao giờ có chuyện như "Triết cố vấn, Triệu cố vấn hay Vương cố vấn" được từ Hồ cho đến Trường Chinh, Hoàng quốc Việt v.v. khúm núm tuân phục một cách tuyệt đối! Và, về công khai trước dân, chưa ai nghe các vị đó bảo nhân dân Việt Nam gọi các lãnh đạo của Mỹ là "Cố" như Hồ, từ lễ đài Ba-đình bảo nhân dân Việt Nam "hoan hô cố Vorochilov"(58). Các đảng phái ở miền Nam Việt Nam, chưa có đảng nào lấy cờ Mỹ hoặc cờ của nước nào đó làm đảng kỳ như đảng cộng sản của Hồ lấy cờ Nga-xô làm đảng kỳ!!!
Những thực tế đó đã chứng minh rằng hoàn toàn không có cái điều, mà từ lâu nhân dân của cả hai miền Nam và Bắc Việt Nam, gọi là hai cách yêu nước khác nhau - một theo kiểu cộng sản và một theo kiểu quốc gia. Sự thật rành rành là:

* Kiểu cộng sản là bán nước, nô lệ của Nga-xô và Tàu cộng (bây giờ là Tàu cộng và các loại tài phiệt).
* Kiểu quốc gia là chống xâm lược đỏ.
Cần ghi nhớ rằng, kể từ khi Hồ cướp được quyền quản lý lực lượng vũ trang, đổi danh xưng từ Quân đội Quốc gia thành "quân đội nhân dân"; xóa bỏ tôn chỉ của lực lượng vũ trang, khi còn do Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến lãnh đạo, là trung với nước, hiếu với dân, để đưa ra tôn chỉ mới cho quân đội nhân dân là trung với đảng, thì thực tế lực lượng vũ trang đã thoái hóa thành ngụy quân. Đó là đoàn quân đánh thuê cho Nga-xô và Tàu cộng. Chúng mang hình hài Việt Nam, nhưng chúng là tụi vô tổ quốc, y hệt lính Lê dương của thực dân Pháp vậy.
Tuân lệnh Nga-xô và Tàu cộng, Hồ dựa vào họng súng của ngụy quân, dựa vào tổ chức Việt gian mang tên đảng Lao động Việt Nam, Hồ thông qua các phong trào "đấu tố chính trị", "cải cách ruộng đất", "trăm hoa đua nở", "cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh", "chấn chỉnh tổ chức" để đảo chính âm thầm Chính phủ Liên hiệp. Hồ và cái đảng Việt gian của hắn đã trấn áp, hạ nhục, khống chế tiến tới thuần hóa và thoái hóa gần như trọn vẹn 100% những trí thức, chuyên gia không cộng sản, những nhân sỹ yêu nước, lãnh đạo tinh thần ở mọi cấp chính quyền, để lưu nhiệm họ sử dụng che mắt cả quốc tế lẫn nhân dân cả nước Việt Nam về bộ mặt bán nước, tay sai của thực dân đỏ Nga-Tàu của Hồ và bè lũ. Những nhân sỹ, trí thức, chuyên gia đó chỉ còn tồn tại theo kiểu "Hồn Trương Ba da Hàng thịt" làm lá chắn chính nghĩa cho Hồ và tập đoàn Việt gian của hắn lợi dụng thực thi các mục tiêu bành trướng của tụi bá quyền đỏ Nga-xô và Tàu cộng! Họ thành trí nô, cán nô các loại.
Thưa ông Bùi Tín,
Do ông chưa nhận thức được "Mặt thật" này nên ông không lý giải nổi tại sao "quân đội nhân dân" lại có thể tàn sát nhân dân ở Huế (1968), pháo kích vào các trường học, chợ búa, bệnh viện, nhà thờ, đền chùa v.v. đàn áp đồng bào vùng cao, tàn sát giáo dân, tham gia "cải cách ruộng đất" và Hồ thì hạ quyết tâm "giải phóng miền Nam dù có phải đốt cả dãy Trường Sơn.". Tại sao những văn nghệ sỹ, trí thức một thời oanh liệt như Chế lan Viên, Xuân Diệu, Cù huy Cận, Thế Lữ, Lưu trọng Lư, Hoài Thanh v.v… lại trở thành hèn hạ, thơ văn toàn thứ kêu gọi "cắt đầu, mổ bụng"; Nguyễn đình Thi, Huyền Kiêu, Nguyễn đỗ Cung, Nguyễn xuân Khoát v.v. những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp ra sao, để rồi từ những năm 1952-53 trở đi hoàn toàn thành một con người khác. Rồi Phạm văn Bạch, Huỳnh văn Tiểng, Nguyễn văn Huyên, Trần duy Hưng, Nghiêm xuân Yêm, Nguyễn Xiển, Bùi Kỷ, Hồ đắc Dzi, Nguyễn tấn gi Trọng, Vũ đình Hòe, Phan Anh có thể nói là tất tần tật các trí thức, chuyên gia nổi tiếng cả trong và ngoài Việt Nam đều trở thành người nhộng!!! (nghĩa là nằm ngoan ngoãn trong kén). Và, những loại "đá cá lăn dưa" ào ào nhảy lên sân khấu chính trị, văn học nghệ thuật, khoa học kỹ thuật như Trần quốc Hoàn (tên trộm cắp ở quê đẻ), Trần danh Tuyên, Nguyễn công Hòa, Nguyễn Bắc, Mai Vi, Phạm Hồng, Hồ Trúc, Vũ đức Phúc, Vũ Khiêu, Phạm đình Sáu, Lê Điền, Hà xuân Trường, Ngô trọng Tỉnh, Hồng xích Tâm, Cù thị Hậu, Nguyễn thị Bình, Nguyễn thị Hằng, Đỗ Mười, Lê đức Anh, Vũ đình Liệu, Bùi huy Đáp, Vũ Quang, Lê khả Phiêu, Nguyễn văn An, Trương thị Mỹ Hoa và v.v.
Nếu vì dân, vì nước, vì tương lai tốt đẹp của các thế hệ Việt Nam thì có đâu lại thuần hóa, thoái hóa các chuyên gia, trí thức, biến họ thành con vẹt, con nhộng và tất cả phải vô liêm sỉ hóa mới cho tồn tại!
Chính vì cái chỗ đứng của ông với 47 năm phục vụ tận tụy cho cái tổ chức Việt gian cộng sản ấy nên ông cố thanh minh, bào chữa cho chúng và cũng là thanh minh và bào chữa cho cá nhân mình, khi ông hạ bút cố tình lập luận rằng: "Phần lớn đi làm chính trị là nhằm giành lại độc lập cho đất nước, tiến bộ cho xã hội. Họ chịu đựng những hy sinh, tổn thất trong đấu tranh, có khi bị bắt bớ, tù đày. Họ nhằm vào những giá trị mà họ tin tưởng, theo đường lối và biện pháp mà họ cho là đúng đắn. Họ lại phải tính đến những thế lực quốc tế, đến cuộc đấu tranh giữa những thế lực quốc tế ấy ở trong khu vực và trên thế giới. Và họ tìm chỗ dựa, tìm sự giúp đỡ và ủng hộ của bên này hay của bên kia, trong cuộc đấu tranh chính trị mà họ dựng lên hay tham gia".(59)
Ông đi một "quả rào trước đón sau" như vậy để rồi lật bài, rằng:
"Như vậy cho nên cần quan niệm một cách khách quan rằng: ở bên này hay ở bên kia, trong tổ chức này hay tổ chức khác, những người hoạt động chính trị trong thời kỳ lịch sử vừa qua đã có những cách yêu nước khác nhau, dẫn đến đường lối và biện pháp khác nhau. Trong đấu tranh quyết liệt đối địch nhau, họ coi nhau là kẻ thù và có những nhận định quá đáng về nhau. Nay lịch sử đã sang trang, cần nhìn lại với đôi mắt tỉnh táo, quý trọng nhau ở động cơ yêu nước, có thể phê phán nhau về đường lối và phương pháp, không nên giữ mãi hận thù kiểu sống mái và triệt tiêu nhau."(60)

Trong hai đoạn văn trên của ông, chúng tôi thấy ông đã lẫn lộn rất trầm trọng khi viết rằng: "Họ nhằm vào những giá trị mà họ tin tưởng, theo đường lối và biện pháp mà họ cho là đúng đắn."(61)
Viết như ông thì xin hỏi "những giá trị mà bọn Khơ-me đỏ đã tin tưởng, theo đường lối và biện pháp mà tụi Khơ-me đỏ đã cho là đúng đắn" có nên phê phán không?
Và, chính ông khi đề cập đến "cải cách ruộng đất", "trăm hoa đua nở" của Hồ và đảng cộng sản của hắn, ông cũng phải phê phán là sai. Chỉ có điều ông cố nhắm mắt chạy tội cho bọn chúng bằng cách mỉa mai rằng các "Triết cố vấn, Triệu cố vấn, Vương cố vấn" xúi dại nên Hồ và cái đảng cộng sản của hắn chỉ có tội là nghe cố vấn xúi dại nên cả bọn đua nhau ăn!!! Cái giá trị mà Hồ và bè lũ tin tưởng rằng cưỡng bức nông dân "vợ tố chồng, con tố cha, con dâu tố bố mẹ chồng, anh chị em đấu tố nhau."(62) là biện pháp làm cho xã hội Việt Nam tiến bộ chăng? Hoặc như ông đã viết: "Sùng bái" mặt trời phương đông, nể sợ "thiên triều" Bắc kinh, ông Hồ đã truyền cho những người lãnh đạo khác ở quanh ông ta, cho cả đảng cộng sản (chúng tôi nhấn mạnh) một thái độ thụ động vô lý, mất hết khả năng phản kháng và tự vệ (chúng tôi nhấn mạnh)" (63). Đấy là biện pháp giành độc lập chăng?
Chúng tôi xin trích ra đây cái mâu thuẫn của ông khi đề cập đến mục tiêu: "nhằm giành lại độc lập cho đất nước, tiến bộ xã hội của Hồ và tay chân khi biện pháp của chúng là cuối 1951, cho đảng cộng sản hoạt động trở lại với "Điều lệ đảng đã ghi lấy tư tưởng Mao trạch Đông làm nền tảng"(64), vì thế "dù có điều gì các học trò Việt Nam cảm thấy là lạ, kỳ kỳ, thậm chí vô lý. Cũng cứ phải cúi đầu vâng dạ mà chấp hành cho sớm."(65) (chúng tôi nhấn mạnh).
Cái điều "là lạ, kỳ kỳ, thậm chí vô lý " đó chính là sự tàn sát nhân dân Việt Nam vô tội một cách cực kỳ dã man; tàn phá nếp sống truyền thống của Việt Nam; đảo lộn trật tự xã hội, tạo ra sự hận thù máu giữa cộng đồng nhân dân Việt Nam; phá hoại sản xuất của Việt Nam; tiêu diệt những thành phần nồng cốt và ưu tú của xã hội Việt Nam. Vậy mà, những người "làm chính trị nhằm giành lại độc lập cho đất nước, tiến bộ cho xã hội" đó, do ông nêu đích danh: "Trường Chinh, Hoàng quốc Việt, Lê văn Lương, Hồ viết Thắng"(66) lại dùng biện pháp "là lạ, kỳ kỳ, thậm chí vô lý."!!!
Những điều "là lạ, kỳ kỳ, thậm chí vô lý." do các phái viên của Mao ra lệnh, theo ông ghi lại lời của Hoàng quốc Việt nói với ông rằng: "Đến bác Hồ biết là không đúng cũng không dám nói với họ!"(67) Thế thì độc lập ở chỗ nào?
Và, ông nhân xét về Hồ như sau: "Ông đã để mặc cho nước của ông, đảng của ông bị một số kẻ nước ngoài lũng đoạn, lộng hành. Trên thực tế, ông đã từ nhiệm vị trí, trách nhiệm của mình."(68) Như thế không gọi là tay sai ngoại bang là gì!!!
Sự việc ông viết ở trên về Hồ chí Minh rõ ràng là hoàn toàn trái ngược với mục tiêu "giành lại độc lập cho đất nước, tiến bộ cho xã hội", vậy mà ông chỉ dám kết luận "Đây là thái độ vô trách nhiệm."(69) Ông Bùi Tín ạ, ông đã cố tình lầm! Thái độ đó của Hồ là thái độ của một tên Việt gian, lưu manh nhất trong lịch sử Việt Nam. Việt gian một cách "tự nguyện" và lưu manh về bản chất!
Trong hai cuốn sách của ông đều nói đến các nước Đông-âu, chư hầu của Nga-xô. Xin lưu ý với ông rằng, các nước đó xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng xích xe tăng của Nga-xô, sau thế chiến thứ hai. Nghĩa là bị cưỡng bức làm thuộc địa đỏ.
Còn Việt Nam thì hoàn toàn ngược lại. Hồ đã từng bước đảo chánh âm thầm Chính phủ Liên hiệp đa đảng; xóa bỏ Quốc hội I và hiến pháp 1946; làm ngược lại Tuyên ngôn Độc lập 2-9-1945; tình nguyện làm tay sai cho Nga-Tàu; Việt gian hóa toàn đảng cộng sản Đông dương; lê dương hóa lực lượng vũ trang; bần cùng hóa toàn dân Việt Nam; biến Việt Nam thành tiền đồn bảo vệ Nga-xô, Tàu cộng và thực hiện chiến lược bành trướng của Nga-Tàu.
Bằng chứng rõ ràng nhất là sau nhiều năm làm gián điệp cho Nga-xô ở Đông-nam-á, Hồ trở về Việt Nam, thì việc đầu tiên là đặt tên một bộ phận lãnh thổ Việt Nam là Lênin, và khi chết di chúc để lại vẫn kêu gọi bảo vệ Nga-xô!
Những điều đó ông đều biết hết. Chẳng những thế, ông còn góp phần vạch trần ra trong hai cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật". Điều làm chúng tôi tiếc cho ông là đã lột xác cộng sản để làm một người yêu nước, nhưng ông lột xác chưa trọn vẹn, như con ve sầu sai lầm khi thoát xác, bị quăn hai cánh nên vẫn bám lấy gốc cây, không tung cánh bay được. Đó là ông viết một câu rất ngô nghê - kiểu thật thà lái cá giống - rằng: "Nay lịch sử đã sang trang, cần nhìn lại với đôi mắt tỉnh táo, quý trọng nhau ở động cơ yêu nước, có thể phê phán nhau về đường lối và phương pháp, không nên giữ mãi hận thù kiểu sống mái và triệt tiêu nhau."(70)
 

Phần 6
Bùi Tín và những tên đặc công đỏ

Ai triệt tiêu và ai bị triệt tiêu?
Tạm thời không nói đến những sự việc xảy ra ở Việt Nam trước 30-4-1975. Chỉ nêu những nét lớn từ 30-4-1975 đến nay để ông Bùi Tín xem ai triệt tiêu và ai bị triệt tiêu?
[Việt gian sát nhân Trần Độ]
Lũ ngụy quân cộng sản, được trung tướng phó chính ủy Trần Độ tẩy não, giáo dục để "trung với đảng" khi chiếm xong Việt Nam Cộng Hòa, cùng cán bộ mọi ngành, mọi cấp đã hành xử ra sao, thì chính ông đã phải thốt ra: "Việc giải phóng được thực hiện gần như một sự chiếm đóng, một cuộc thôn tính!"(71)
Ông đã nhận xét gần đúng với sự thật. Bởi đó chính là sự chiếm đóng, cuộc thôn tính của chủ nghĩa thực dân đỏ lên nước Việt Nam Cộng Hòa, chứ không phải như ông viết là: "gần như"!
Lũ thái thú đỏ đã đeo mặt nạ "hòa giải - hòa hợp", cầm chiêu bài "đóng tiền ăn học tập 10 ngày" để lừa những người "mơ hồ về chiến tranh huynh đệ", tự đưa thân vào vòng lao tù. Và, hình ảnh của "sự hòa giải - hòa hợp dân tộc để xây dựng đất nước" đó đã được ông kể lại như sau: "Từ hồi năm 1975, tôi gặp hơn 40 viên tướng Sài-gòn đi cải tạo, gặp gần 100 nhân viên cấp cao ra trình diện, và sau đó tôi đi khắp các trại ở Long Thành, Thủ Đức, Bà Rịa, Long Khánh, Tây Ninh, rồi ra Bắc đi lên tận vùng Tân Phú ở Tuyên Quang. Tôi băn khoăn không thể lý giải được rằng: người cộng sản thường tự nhận là con người nhân ái, sao lại có thể chủ trương đày ải hàng loạt, hàng chục vạn con người trong cảnh thực sự là tù đày cực nhọc đến thế này? ở trại Thủ Đức, các chị em nữ sỹ quan nằm la liệt trên sàn xi-măng, trải ni-lông mỏng mà không có chiếu, có màn ở Tuyên Quang, có nhiều người bị giam tuổi 68, 70, 78 tuổi, ăn không đủ chất, thiếu sinh tố, mù mắt, suy kiệt. Để làm gì? Họ có thật sự được cải tạo, hiểu ra lý lẽ về cuộc chiến tranh này, hay họ thêm nản lòng và cay đắng với chế độ mới? Tôi đã xem tài liệu học tập cho các viên tướng Sài-gòn và bài chuẩn bị lên lớp của người quản giáo ít tuổi. Tôi thấy rõ việc dạy và học đều là miễn cưỡng, hình thức, không tạo được kết quả mong muốn. Tôi đã nói lên chính kiến của mình cho ông thứ trưởng Bộ nội vụ Viễn Chi, đại diện của Bộ ở miền Nam. Ông ta chỉ cười nhạt và im lặng."(72)
[Trần Độ cuối đời sám hối]


Không phải là chúng tôi, mà chính nụ cười nhạt và sự im lặng của tên thiếu tướng thứ trưởng công an Viễn Chi, đã chứng minh rằng, không phải từ năm 1975 ấy, mà cho đến bây giờ ông vẫn còn mơ hồ, chưa đủ tỉnh táo đầu óc để nhận diện xem cái tổ chức cộng sản mà ông có gần 50 năm tham gia là cái gì? Cho nên ông ra sức bênh vực nó rằng "đấy cũng là một cách yêu nước khác nhau, dẫn đến đường lối và biện pháp khác nhau cần nhìn lại với đôi mắt tỉnh táo, quý trọng nhau ở động cơ yêu nước."(73)
Viễn Chi và ông là "đồng chí" với nhau. Ông mới chỉ nói lên chính kiến của ông mà đã bị Viễn Chi "cười nhạt và im lặng", nghĩa là hắn khinh ông ra mặt. Vậy mà, ra hải ngoại, ông luôn kêu gào những nạn nhân của tên Viễn Chi và cái đảng Việt gian cộng sản của hắn nên "quý trọng nhau ở động cơ yêu nước" ấy của chúng (vì ông khẳng định cộng sản cũng yêu nước theo cách của chúng)!!! Chỉ có ông và những con đà điểu rúc đầu vào cát mới còn tin và quý cách yêu nước của Hồ và cái đảng cộng sản của hắn. Vì thế tên Viễn Chi mới cười nhạt và im lặng vì biết ông đang mộng du, không biết cái nước mà chúng yêu là Nga-xô, không phải Việt Nam!!!
Giống như Trần Độ đã giáo dục, cho quân ngụy dưới quyền, yêu nước Nga-xô, nên chúng mới khoan khoái pháo kích vào trường học, chợ búa, bệnh viện; dùng cán cuốc đập chết và đâm lê vào nhân dân ở Huế, cả phụ nữ có thai, cụ già, trẻ em; tàn sát đồng bào vùng cao, các làng công giáo và giúp tụi công an ngụy quyền cộng sản xâm lược đem đầy nhân dân Việt Nam Cộng Hòa ở các thành thị đi "kinh tế mới", mà thực chất là đưa đi đầy ải cho chết dần chết mòn.
Xin đưa thêm một dẫn chứng nữa về cách yêu nước, của tập đoàn Việt gian cộng sản, mà chính ông đã viết ra như sau: "Chính quyền đã tự mình phạm pháp khi chủ trương thu vàng và tổ chức di tản, "xuất khẩu những công dân loại 2", một chủ trương bán chính thức mà quốc hội không hề được biết. Đây là một vụ tham nhũng cực lớn, tàn bạo, đầy máu và nước mắt, một vụ phạm pháp ô nhục của hệ thống chính quyền, đày đọa nhân dân mình không ai có thể bênh vực và lấp liếm được."(74)
Đoạn văn trên khiến chúng tôi nghĩ ông rào trước đón sau rằng ông viết với “cách nhìn có trách nhiệm, khách quan, theo tinh thần phê phán”(75) chỉ nhằm huyễn hoặc người đọc thiếu thông tin hoặc thiếu tỉnh táo.
Thứ nhất, ông cố tình bào chữa cho tập đoàn Việt gian cộng sản trong vụ tổ chức vượt biên bán chính thức, bịa ra cái tội danh mơ hồ là "xuất khẩu những công dân loại 2". Chúng bán bến bãi, bán tàu không an toàn, thu vàng của dân và đẩy họ ra biển cho chết. Cả trong và ngoài Việt Nam đều biết rõ việc đó, nhất là qua vụ tranh ăn nội bộ để phải đưa ra thanh toán nhau, như vụ tên thiếu tướng Mười Vân, giám đốc công an ngụy quyền cộng sản ở Đồng Nai. Vậy mà ông dám sáng tác ra cụm từ "xuất khẩu những công dân loại 2".
Thứ hai, ông cố tình ngây thơ cụ để kết tội "chính quyền" (tức chính quyền cộng sản) mà không dám nói đích danh rằng bộ chính trị Việt gian cộng sản là kẻ ra lệnh tổ chức vượt biên bán chính thức.
Thứ ba, ông giả vờ làm như không biết rằng cái gọi là "quốc hội", từ sau 1954, tức là khi "cụ thân sinh ra ông" còn làm việc ở quốc hội, thì tất cả là bù nhìn rồi! Và cho đến bây giờ (2003) cũng vẫn là bù nhìn. Chỗ khác nhau là, trước đây bù nhìn mặc áo đại cán, còn bây giờ bù nhìn đeo cà-vạt!
Chính ông, muốn "bênh vực và lấp liếm" cho tập đoàn Việt gian cộng sản mà cũng không được, nên phải nhận rằng đó là phạm pháp. Vậy thì, trong vụ "Tổ chức vượt biên bán chính thức này", ông làm ơn chứng minh xem "động cơ yêu nước" của tập đoàn Việt gian cộng sản là ở điểm nào, và biện pháp giết dân, trấn lột như vậy gọi là gì?
Toàn những chuyện "trời sầu đất thảm", chưa từng xảy ra trong lịch sử Việt Nam, do ông tự nguyện viết ra. Vậy mà ông vẫn cố tình bịa đặt có một kiểu yêu nước của cộng sản. Cụ Phan Khôi, nếu sống trở lại, chắc cũng phải nhìn ông mà thở dài: "Thưa nhà báo Thành Tín, bạn đã cố tình tôi biết nói làm sao?"!(?)
Chính vì sự cố tình đó của ông, nên chúng tôi xin lưu ý để ông biết rằng:
1- Mỹ rút khỏi Việt Nam Cộng Hòa từ 1973, nhưng ngụy quân cộng sản vẫn tiếp tục thực thi bành trướng bá quyền đỏ, được vạch ra từ 1930, trong cương lĩnh chính trị của cái gọi là đảng cộng sản Đông dương. Diễn biến ra sao, "nhân dân miền Nam vùng lên lật đổ ngụy quyền" như con Tú Bà Phan thúy Thanh ỏn ẻn trong các cuộc họp báo hay VNCH bị đoàn lê-dương Việt gian cộng sản vũ trang xâm lược như tên tướng lê-dương Văn tiến Dũng, thú nhận trong cuốn "Một mùa xuân đại thắng", xin tùy ông lựa chọn.
2- Tập đoàn Việt gian cộng sản dùng chiêu bài "hòa giải – hòa hợp" để lừa quân, cán, chính của VNCH đi "học tập 10 ngày" và đày ải tất cả trong các cái gọi là trại cải tạo, mà ông phải thừa nhận đó là "nhà tù" thực thụ. Chúng đày ải cho chết cả thân xác lẫn tinh thần. Cái gọi là tài liệu học tập mà ông phải thừa nhận là "hình thức, không tạo được kết quả mong muốn" lại được lên lớp bằng "người quản giáo ít tuổi" (ông chưa dám nói thẳng hai tiếng: ngu dốt). Khi ông nêu ý kiến đó với tên Viễn Chi, thứ trưởng Bộ nội vụ, đại diện bộ ở miền Nam thì hắn "cười nhạt và im lặng". Chúng tôi đã có nói, thái độ đó của Viễn Chi là hắn khinh thường ông ra mặt. Tại vì hắn nghĩ hoặc ông khờ khạo hoặc giả đò ngây thơ. Ông quên rằng, ở miền Bắc trước kia, Hồ đã dùng tổ chức Việt gian cộng sản và công cụ chuyên chính (lính và công an) là lực lượng vũ trang với tôn chỉ trung với đảng, để triệt tiêu các tầng lớp nhân dân ưu tú - cái khung của xã hội Việt Nam - nhằm thiết lập có hiệu quả bộ máy cai trị của chủ nghĩa thực dân đỏ Nga-Tàu. Cho nên sau ngày 30-4-1975, tụi thừa kế Hồ - những học trò xuất sắc của hắn - cũng đi lại đúng bài bản của Hồ là triệt tiêu mọi trở ngại cho việc thiết lập và hoàn chỉnh bộ máy cai trị thực dân đỏ. Bởi vậy, chúng cũng vẫn lập lại cái công việc từ ngày tổ chức Việt gian cộng sản của chúng ra đời, năm 1930, là:
"Trí, phú, địa, hào
Đào tận gốc, trốc tận rễ"
bằng cho đi cải tạo; bằng đuổi đi kinh tế mới; bằng tịch thu tài sản; bằng quản thúc tại địa phương và bằng "tổ chức vượt biên bán chính thức."
Điểm đặc biệt, khác hơn hồi sau 1954, là chúng phải đối phó với lực lượng cảnh sát VNCH; văn nghệ sỹ, báo chí; và nhất là QLVNCH.
Bằng chứng cụ thể của lịch sử đã chứng minh rằng, ngay khi có dấu hiệu Hồ chí Minh phản bội lại dân tộc Việt Nam, phản bội lại sự "hòa giải - hòa hợp dân tộc" để cho ra đời Quốc hội I và Chính phủ Liên hiệp của nhiều đảng phái, bằng cách qua tay bọn Lê Giản, Trần Hiệu, Chu đình Xương, dựng ra vụ án "Ôn như Hầu" để bôi nhọ VNQDĐ; cử cố vấn tối cao của Chính phủ Liên hiệp - Vĩnh Thụy, tức cựu hoàng Bảo Đại - qua Trùng Khánh gặp Tưởng giới Thạch rồi cắt tiếp tế, cũng như tàn sát các sỹ quan trường lục quân VNQDĐ ở Yên Bái v.v… thì đã có nhiều người ly khai để chống lại Hồ bằng cả chính trị lẫn vũ trang. Cái lực lượng vũ trang đó chính là tiền thân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, lực lượng duy nhất đã đem máu xương, tuổi trẻ, hạnh phúc gia đình để chiến đấu chống cuộc xâm lăng của cả thực dân "xanh" lẫn thực dân đỏ.
Quân lực Việt Nam Cộng hòa là trở lực lớn nhất và có tính quyết định đối với việc thiết lập bộ máy cai trị của thực dân đỏ trên cả hai miền Nam-Bắc Việt Nam. Vì thế, tập đoàn Việt gian cộng sản cố tình triệt tiêu Quân lực Việt Nam Cộng Hòa bằng kéo dài ngày tháng mà chúng đội cho cái mỹ tự "học tập cải tạo". Nhiều người phải bỏ thân lại nơi rừng rú ở các trại địa ngục trần gian đó. Số được trả lại về đời thì tất cả đều đã bỏ lại tuổi trẻ, sức khỏe, lòng kiêu hãnh - vì đa số cho rằng bị bại trận - để hầu hết bị rớm máu tâm hồn. Tình hình trong và ngoài nước khiến tập đoàn Việt gian cộng sản không thể "chôn sống" được hết những người bị cải tạo nên chúng triệt tiêu sức khỏe, tuổi đời. Về mặt tinh thần, chúng bỏ đói, tra tấn con tim bằng lo lắng cho vợ con, cha mẹ, để cho đồng đội hàng ngày chỉ nhìn thấy "mặt yếu kém" của nhau, khiến lòng tự tin, tuân phục giảm sút. Nghĩa là bị triệt tiêu về tinh thần, khí phách quân nhân.
Chúng dùng lũ "ranh con vô học, vô giáo dục" làm cái gọi là "quản giáo" để dạy chính trị cho những người mà tư cách và kiến thức tổng quát đều gấp ngàn lần loại thầy của chúng như Trần quốc Hoàn hay Trần Độ, Chu huy Mân, Đỗ Mười, Lê khả Phiêu. Mục đích này của chúng nhằm hạ nhục những người bị bắt đi cải tạo mà thôi. Đó là cách chúng đã thực thi trong các cái gọi là "đấu tố chính trị", "rèn cán, chỉnh quân", "chỉnh huấn" từ 1950-51 trở đi để trấn áp, thuần hóa tiến tới thoái hóa toàn bộ các nhân sỹ, chuyên gia, trí thức đã tham gia trong chính phủ và các cấp chính quyền địa phương thời của Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến (chống thực dân Pháp). Nghĩa là tạo ra loại người nhộng.
Cùng với Quân Lực Việt Nam Công Hòa, các người làm chính trị, các văn nghệ sỹ, trí thức, nhà báo cũng chung số phận. Đặc biệt, với số này chúng đã "cấy sinh tử phù" với những ai đó mất tinh thần, để khi về đời sẽ "tự trung hòa" ngòi bút của mình hoặc khéo léo uốn ngòi bút theo kiểu "thành phần thứ ba" xưa kia, nghĩa là một kiểu yêu nước mơ hồ, một lập trường "ba phải": úm ba la tất cả đều sai. Nghĩa là tội phạm sai mà nạn nhân cũng sai luôn...!
3- Tập đoàn Việt gian cộng sản dùng chiêu bài "duy trì 5 thành phần kinh tế" để níu chân các nhà công thương của Việt Nam Cộng Hòa cho chúng kịp chuẩn bị chu đáo kế hoạch bần cùng hóa thành thị miền Nam. Người thành thị bị đuổi đi cái gọi là kinh tế mới.
4- Cuối cùng, chúng bần cùng hóa nông thôn miền Nam bằng hợp tác hóa và ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước, nghĩa là thuộc sở hữu của tập đoàn chóp bu Việt gian cộng sản.
Chúng đánh vào tôn giáo qua việc cải tạo thành thị và nông thôn. Đồng thời bỏ tù khéo léo lực lượng thanh niên của Việt Nam Cộng Hòa bằng cách đưa họ vào cái gọi là "Thanh niên xung phong" và đưa vào lực lượng vũ trang làm nhiệm vụ ở nước ngoài. Cụ thể là đi chết ở chiến trường Căm-bốt.
5- Ngay từ lúc bước vào đến Huế, nghĩa là trước 30-4-1975, đoàn quân lê đương Việt gian cộng sản đã khuân hàng hóa ào ào về Bắc. Và, sau 30-4-1975 thì tất cả các ngành, các bộ, cả trung ương và địa phương miền Bắc Việt Nam, của ngụy quyền cộng sản và đảng Việt gian cộng sản đua nhau vào vơ vét hàng hóa của miền Nam. Lớn thì xe hơi, máy móc; gạo thóc, đường sữa; nhỏ thì từ bao mỳ ăn liền cho đến bóng bay cho trẻ em; đồ điện tử, vàng, hạt xoàn v.v… Chúng gỡ cả dụng cụ y tế ở các bệnh viện; đồ dùng giảng dạy ở các trường của Việt Nam Cộng Hòa kìn kìn chở ra Bắc bằng cả đường hàng không, đường bộ và đường thủỵ
Các thái thú Nga-Tàu cũng cho nhân viên vào vơ vét mọi mặt hàng hóa của Việt Nam Cộng Hòa chở về nước. Tàu cộng cho tàu Hồng Kỳ vào cảng Đà-nẳng; còn Nga-xô thì mỗi tuần có 2 chuyến bay của Aeroflot chở hàng điện tử về Nga.
Đồng thời, lũ xâm lược đỏ bắt đầu chở tù ra Bắc.
Cảnh tượng đó diễn ra công khai, cho nên một nhà báo loại gạo cội như ông không thể không lộ ra chút ít trong 2 cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật". Chỉ có điều ông không dám so sánh để thấy nó còn tàn bạo và kinh hoàng gấp hàng tỷ lần thời giặc Minh bên Tàu khi giải Nguyễn Phi Khanh (thân phụ của Nguyễn Trãi). Vì, như ông đọc sử thì thấy Nguyễn Phi Khanh còn được anh em Nguyễn Trãi đi theo hầu hạ và dù Nguyễn Trãi là một vị quan của nhà Hồ nhưng đâu có bị "đi cải tạo"! Còn số phận quân, cán, chính của Việt Nam Cộng Hòa bị đưa ra thượng du miền Bắc, vợ con đều không hay biết; bị còng và đối xử còn tệ hơn chở thú vật. Không ít người đã chết khi bị vận chuyển ra Bắc!!!
Vậy là "giải phóng" hay "xâm lược"???
Ai triệt tiêu và ai bị triệt tiêu???

Chính vì thế mà tập đoàn Việt gian cộng sản mới đánh cồng cho lũ ma trơi của chúng hú lên "quên quá khứ, xóa bỏ hận thù"!
Sau 132 năm Algeria bị thực dân Pháp đô hộ, cuối cùng đã giành được độc lập. Từ đó đến nay vừa tròn 40 năm. Lần đầu tiên một tổng thống của Pháp đã chính thức viếng thăm Algeria là Jacques Chirac. Ngày 02/03/2003 vừa qua, ông ta có nói với báo giới Algeria rằng: "Cuộc chiến tranh Algeria đã để lại một khoảng thời gian đau lòng trong lịch sử chung của chúng ta mà chúng ta không thể và chúng ta cũng không được quên".
Ông đang sống tại Pháp. Cuốn "Mặt thật" của ông đã cho dịch sang tiếng Pháp với lời giới thiệu của một nhà báo Pháp, cũng có tên tuổi. Chúng tôi xin trích câu nói trên của đương kim tổng thống Pháp - Jacques Chirac - để ông suy nghĩ thêm về "món thịt bò hầm lá ngón"(76) có tên quên quá khứ, xóa bỏ hận thù mà ông đang cổ võ hết mình, cũng như lời khuyên "nên quý trọng động cơ yêu nước" (hay bán nước) của tập đoàn Việt gian cộng sản!!! Thử hỏi rằng, từ những năm tháng Hồ chí Minh còn làm gián điệp cho Nga-xô ở Đông-nam-á, hắn có "quý động cơ yêu nước" của cụ Phan Bội Châu không mà hắn bán cụ Phan cho mật thám Pháp?
Hắn có "quý động cơ yêu nước" của cụ Phan Chu Trinh không, là người đã dìu dắt hắn khi còn ngu ngơ đến đất Pháp?
Hắn có "quý động cơ yêu nước" của anh hùng Nguyễn Thái Học không, mà phá cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thái Học. Và khi tiếm được quyền thống trị, cả hắn cho đến lũ đệ tử của hắn hiện nay vẫn tìm cách hạ thấp ảnh hưởng của khởi nghĩa Yên Bái
Hắn có "quý động cơ yêu nước" của những nhân sỹ, trí thức, chuyên gia, các nhà công thương, nông dân, tiểu thương đã nhờ họ mà cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tiến triển tốt đẹp (trước khi Tàu cộng chiếm toàn lục địa Tàu cuối năm 1949), và hắn cùng cái đảng Việt gian của hắn đã triệt tiêu họ như thế nào trong "đấu tố chính trị", "cải cách ruộng đất" v.v. Chẳng lẽ ông quên những cái tên Nguyễn mạnh Tường, Hoàng văn Đức, Dương đức Hiền, Phan Khôi, Nguyễn hữu Đang, Vạn Vân, Nguyễn sơn Hà, Trịnh văn Bô, Đào đình Quang, Đặng văn Hướng, Nguyễn thị Năm và v.v…? Và, ngay trước khi thực thi chính sách "mở cửa", "đổi mới" của thời Nguyễn văn Linh, thì chúng đã triệt tiêu hai đảng Dân chủ và Xã hội; cũng như "cởi trói" cho những văn nghệ sỹ, trí thức bị chúng triệt tiêu thì Văn Cao nặng chưa được 40 kí-lô; Trần Dần thì liệt nửa người; Quang Dũng nằm chờ nhận xe lăn; Tử Phác chết nghèo khổ; Nguyễn Bính chết cô đơn; Nguyễn mạnh Tường nhiều tuổi hơn lúc Hồ bị còng đi hỏa ngục; xương thịt của bà Nguyễn thị Năm (tức Cát thành Long) cũng như của kỹ sư nông học Đào đình Quang và v.v… đã bị mối đất đồi Thái-nguyên, Phú Thọ đánh chén sạch trơn!!! Và, chính cụ thân sinh ra ông mà ông tự hào được Hồ "tam cố thảo lư" và kết bạn thân, cũng được làm "cây cảnh" trên sân khấu chính trị ngay từ thuở 1951, nghĩa là lúc tổ chức Việt gian cộng sản của Hồ đầu thai trong lốt "đảng lao động Việt Nam"!!!
Tập đoàn Việt gian cộng sản có "quý động cơ yêu nước" của luật sư Trịnh đình Thảo với cái Mặt trận Liên minh Dân tộc của ông ta không? Và đặc biệt với hai đảng Dân chủ Việt Nam và đảng Xã hội Việt Nam, hai đảng này đã "hòa giải - hòa hợp" với chúng từ 1945 và cùng đi với chúng cho đến sau 30-4-1975, ngoan ngoãn thành hai đảng "cách mạng con nhộng" mà vẫn bị triệt tiêu một cách tàn nhẫn.
Trong cuốn "Mặt thật", trang 215, ở mục "Lấy oán báo ân", ông có đề cập đến hai nhân vật, công dân của Việt Nam Cộng Hòa, như sau: "Có những trường hợp còn tệ hơn thế, nghĩa là coi những người từng giúp đỡ mình như kẻ thù, đối xử với họ thật tàn nhẫn. Ví như trường hợp của linh mục Chân Tín và ông Nguyễn ngọc Lan. Tôi được quen biết hai ông từ khi tôi ở trong trại Davis đầu năm 1973, qua mấy nhà báo Pháp và Tây Đức. Linh mục Chân Tín rất quan tâm đến công bằng xã hội, đến hoàn cảnh bị đọa đày của tù nhân bị nhốt ở Côn đảo, ở khám lớn Sài-gòn, đặc biệt là anh chị em tù nhân cộng sản. Linh mục đã quyên góp nhiều tiền nong, áo quần, thuốc men để chuyển vào cho anh chị em bị tù ở khám lớn Sài-gòn, ở Côn đảo và cả ở Phú-quốc nơi có hơn 2000 tù quân nhân, phần lớn sỹ quan và binh lính các đơn vị miền Bắc bị bắt trong chiến tranh. Linh mục đã đưa ra những kiến nghị sắc sảo đòi cải thiện chế độ lao tù, từ chỗ cấm chỉ nhục hình, tra tấn tù nhân đến chỗ khám bệnh, chữa bệnh, gửi thuốc men những người tù bị thương và đau ốm. Ông đòi cho tù nhân được thân nhân đến thăm nuôi, tiếp nhận thư gia đình gửi đến cũng như gửi thư của người tù về các gia đình họ. Linh mục cũng rất quan tâm đến cuộc sống của tù nhân chính trị. Ông Nguyễn ngọc Lan khi còn là linh mục ở nhà thờ Kỳ Đồng cũng cố tìm cách liên lạc với đoàn đại biểu miền Bắc, biểu thị lòng mong muốn đất nước thanh bình, cả dân tộc được hòa hợp, phát huy nền văn hóa dân tộc, phát triển giáo dục. Ông không dấu thiện cảm đối với những việc làm tốt ở miền Bắc hồi ấy như dạy ở các trường đại học bằng tiếng Việt, công việc khảo cổ, việc xuất bản các sách quý của các danh nhân dân tộc. Ông rất mong nhận được những tạp chí chuyên ngành khoa học của miền Bắc. Ông cũng từng ra căn cứ của quân giải phóng ở Bến-lức để bàn về chánh sách hòa hợp. Sau ngày 30-4-1975, tôi lại có dịp gặp gỡ hai ông, nói chuyện khá lâu ở trong dinh độc lập."
Qua đoạn văn trên của ông, chúng tôi nhận thấy:
1. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, từ cái thuở trước 30-4-1975, chẳng cần ông góp ý, đã "Quý động cơ yêu nước" của hai ông linh mục Chân Tín và Nguyễn ngọc Lan; đã thỏa mãn những kiến nghị của hai ông ấy, mặc dù ngòi bút của linh mục Nguyễn ngọc Lan trong các bài "Pin con ó, Po con ín" cũng góp phần gió cho cơn bão xâm lược đỏ không phải là ít. Nhất là việc ông ta bỏ việc đạo, cất công ra Bến-lức đề "bàn về chánh sách hòa giải", chắc chắn đã bào mòn tinh thần chống xâm lược đỏ, chí ít cũng là của các con chiên do ông ta chăn dắt!!!
2. Cả hai ông linh mục Chân Tín và Nguyễn ngọc Lan đều là "trí thức có hạng", tiếc rằng kiến thức gom góp qua sách vở, nên cũng mơ hồ nhìn cuộc chiến của Việt Nam Cộng Hòa chống xâm lược đỏ thành "cuộc chiến quốc cộng, hoặc cuộc chiến huynh đệ", nên đã tự huyễn hoặc rằng cộng sản cũng yêu nước, tin rằng: "Họ nhằm vào những giá trị mà họ tin tưởng, theo biện pháp mà họ tin là đúng đắn", cho nên hai ông đã "Quý động cơ yêu nước" của chúng, để làm cái việc mà nói nôm na là: "ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản"!
3. Như cách ông viết thì hai ông linh mục Chân Tín và Nguyễn ngọc Lan đã là "người làm ơn" cho đoàn quân xâm lược đỏ có chút dễ dàng nào đó để lê xích xe tăng của chúng vào Sài-gòn. Ai ngờ, vào được Sài-gòn rồi, lừa được quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa vào các nhà tù rồi; đổi tên Sài-gòn thành Hồ chí Minh rồi; triệt tiêu các ước vọng "tự do" và "công lý" được đặt tên cho hai đại lộ của Sài-gòn thời Việt Nam Cộng Hòa rồi; lũ cộng sản hiện hình thành quân xâm lược đỏ và chúng đã "Quý động cơ yêu nước" của hai ông linh mục mơ mộng bằng cách quản chế dài hạn. Tổ tiên ta đã dạy: "Chớ cõng rắn về cắn gà nhà", xin ghi nhớ, đừng quên.
Câu chuyện về hai vị Chân Tín và Nguyễn ngọc Lan còn một chút thú vị nữa, chúng tôi xin được viết tiếp giùm ông. Đó là, hai vị đó cùng làm chung tờ nhật báo Tin Sáng với cựu dân biểu Ngô công Đức. Ngày 1-5-1975, các vị đó được tiếp nhận một người của "giải phóng" có tên là Kỳ Phương, làm cố vấn cho tòa soạn nhật báo Tin Sáng. Cái tên Kỳ Phương được sáng tác tối 30-4-1975. Còn tên cũ của "cố vấn" Kỳ Phương là Trần Phong, cựu trưởng ty công an của Việt gian cộng sản ở Thanh-hóa! Kỳ Phương được phái làm "cố vấn" chắc để tỏ lòng "Quý động cơ yêu nước" của quý vị Chân Tín, Nguyễn ngọc Lan và Ngô công Đức!
Sau 30-4-1975, quốc hội Việt gian họp ở Hà-nội. Ngô công Đức và linh mục Nguyễn ngọc Lan có được mời dự họp với tư cách "nhà báo". Cả hai phấn khởi lắm, nên lúc giờ giải lao đều chạy lên gặp Trường Chinh. Thật là chẳng ai học được chữ ngờ, vì Trường Chinh nghe giới thiệu xong, cũng chẳng thèm bắt tay ai, cũng chẳng thèm ngó đến linh mục Nguyễn ngọc Lan, chỉ nghiêm mặt đưa ngón trỏ chỉ thẳng mặt Ngô công Đức, nói trống không: "Liệu hồn, đừng quen tay viết bậy viết bạ!!!"
Hình ảnh trên, theo cách lý luận của ông (Bùi Tín) nghĩa là Trường Chinh đối xử với Ngô công Đức và linh mục Nguyễn ngọc Lan như vậy có nghĩa hắn có "Quý động cơ yêu nước" của Ngô công Đức và linh mục Nguyễn ngọc Lan, nhưng vì "hắn nhằm vào những giá trị mà hắn tin tưởng, theo biện pháp mà hắn tin là đúng đắn". Nghĩa là cái biện pháp chỉ mặt mắng như mắng ch…?(!)
6) Cuối 1954, khi đặt ách thực dân đỏ lên miền Bắc Việt Nam, một trong những ưu tiên hàng đầu của tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh là tìm cách xóa bỏ quá khứ trong đầu óc nhân dân Việt Nam. Các làng xóm bị đội cho những tên mới như Xuân Thủy, Minh Khai, Hồng Phong v.v… Đền, chùa, đình, miếu, nhà thờ bị tàn phá. Nhiều tộc phả của những dòng họ lớn có công dựng nước và giữ nước; nhà thờ tổ; văn bia bị hủy hoại, bị kết tội phong kiến lạc hậu cần xóa bỏ. các đô thị, tên của tụi Việt gian cộng sản được lấy làm tên phố.
Việc xóa bỏ quá khứ này là một kiểu xóa bỏ có chọn lọc, nghĩa là cái gì không có lợi cho tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh thì bị xóa bỏ. Đây là sáng kiến của Hồ chí Minh, nên từ cuối 1945, hắn lèo lái để mọi người quên cái tên Hoàng Diệu đã được chính phủ Trần Trọng Kim lấy đặt cho Hà-nội nhằm xóa bỏ giai đoạn Trần Trọng Kim trong lịch sử Việt Nam. Vì thế mà không ít người đã ngoan cố cãi rằng "chưa nghe nói Hà-nội đã từng được gọi là Hoàng Diệu". Hiện nay trong "Biên niên tiểu sử Hồ chí Minh" (dựa vào văn bản, tài liệu hiện lưu trữ trong cái gọi là Bảo tàng Hồ chí Minh) có ghi các đoàn đại biểu công nhân "thành Hoàng Diệu" do Trần danh Tuyên dẫn đầu đến chào chính phủ; khi tới Pháp về hội nghị Fontainebleau, Hồ cũng trao thư và quà của "thiếu nhi thành Hoàng Diệu" cho thiếu nhi Việt Nam sinh sống tại Pháp; và mới đây nhất, ông Trần đại Sơn, trong nhóm gọi là "Đấu tranh cho dân chủ" ở trong nước, có ghi nhận đã từng là "tự vệ quyết tử của thành Hoàng Diệu". Và, đến nay chắc cũng rất ít người còn nhớ rằng đơn vị vũ trang đầu tiên ở Hải-phòng chạm súng với thực dân Pháp, khi chúng quay lại miền Bắc Việt Nam 1945-46, chính là đại đội chủ lực mang tên Ký Con - một lãnh tụ VNQĐD -, cũng vì đường lối xóa bỏ quá khứ của tập đoàn Việt gian cộng sản mà ra như vậy. Vì chúng không muốn mọi người biết đến công lao của các đảng phái không cộng sản!
Đối với Việt Nam Cộng Hòa cũng thế. Sau ngày 30-4-1975, quân xâm lược đỏ đã đổi tên Sài-gòn thành Hồ chí Minh. Chúng lộ rõ bộ mặt Việt gian cướp của giết người, nên chúng đã xóa bỏ các tên Tự Do và Công Lý của hai con đường nổi tiếng của Sài-gòn để thế vào 2 cái tên rất vô duyên là "Đồng khởi và Nam kỳ khởi nghĩa". Tự xưng là "giải phóng" mà lại chối bỏ "Tự do" và "Công lý"!!!(?) Rồi các tên phố Duy Tân và Hiền Vương cũng bị bỏ luôn. Lấy một loạt tên những lũ mà chẳng ai biết từ hang cua hang rắn nào bò ra, như: Lê thị Riêng, Huỳnh văn Bánh v.v… đặt tên cho các đường phố của Sài-gòn. Rồi chúng ghép và đổi tên các tỉnh, huyện, xã v.v… Tất cả không ngoài mục đích làm cho các thế hệ sau quên hết rằng đã có thời kỳ lịch sử của Việt Nam Cộng Hòa mọi mặt đều tốt hơn hẳn so với chế độ thực dân đỏ. Chúng múa lại đúng võ, của quân xâm lược Tàu xưa kia đã, đổi Việt Nam thành các quận Giao chỉ, Cửu chân, Nhật Nam vậy!!!
Còn những chiến tích giết dân của chúng xưa kia, về văn bản chúng đã cho lũ trí nô biên tập lại, sáng tác và bổ xung thêm các tài liệu giả mạo để biến việc giết dân thành cứu dân. Các thế hệ sau này đã đành, ngay các thế hệ Việt Nam hiện tại, cùng với các ngòi bút ngoại quốc "thiếu kiến thức về cộng sản Việt Nam" hoặc bợ đỡ ác quỷ như Ô-li-vơ-Tốt (Olivier Tođ) hay Bô-oen (Kevin Bowen giám đốc trung tâm William Joiner Center của University of Massachusetts) đã dựa vào tài liệu xuyên tạc đó để làm phim ảnh, viết bình luận, soạn tài liệu nghiên cứu về Việt Nam, hoàn toàn không nhận ra hoặc không dám nhận ra bộ mặt thật cuộc chiến ở Việt Nam là cuộc chiến của nhân dân Việt Nam chống sự bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ Nga-Tàu.
Và, một số học giả, trí thức Việt Nam, thuộc nhà họ vẹt, đã hỉ hả "trích dẫn, sao chép" lại "tài liệu, ý kiến" của bộ máy làm hàng giả của Việt gian cộng sản - tức các ban tuyên giáo và khoa giáo "trung ương" - đã được "tây, đầm hóa" - để cho ra lò những bài nghiên cứu, những sách, có động cơ đi đêm với quân xâm lược đỏ, được che bằng cái mặt nạ "khách quan, hàn lâm, quốc tế, khoa học", hiệp đồng với tụi trí thức tả phái và tụi Việt gian cộng sản nằm vùng (ở hải ngoại), lợi dụng chiêu bài "tự do ngôn luận, tự do tư tưởng" để đầu độc các thế hệ trẻ Việt Nam cả trong và ngoài Việt Nam.
Cho nên, tập đoàn Việt gian cộng sản vẫn đều đều hàng năm cho kỷ niệm ngày Xô-viết Nghê.-tĩnh (1930-31); ngày thành lập đảng cộng sản Đông đương (3-2-1930), rồi nào là "Nam kỳ khởi nghĩa" cho đến "tổng tiến công và nổi dậy 1968 (Tết Mậu Thân)", "đại thắng mùa xuân 30-4-1975" v.v. Có thấy xóa bỏ quá khứ đâu, mà toàn là "quá khứ máu dân xương lính" cả!
Ngay ông, đặt tôn chỉ, trên giắy trắng mực đen hẳn hoi, rằng: "Viết theo điều mình nghĩ, bằng cái đầu "lạnh" của chính mình, không a dua, không nói theo, không bôi đen hoặc tô hồng, công bằng với cả những người mình lên án"(77) Nhưng, xin ông đọc lại hai cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" của ông, để thấy rằng, ngôn ngữ ông dùng hoàn toàn là "ngôn ngữ của bồi bút cộng sản". Thí dụ, tụi do Hồ, Lê Duẩn cho nằm vùng lại ở miền Nam Việt Nam sau Hiệp định Genève 1954, đã thi hành nghị quyết 15 của đảng Việt gian cộng sản (1-1959) là dùng bạo lực ở miền Nam Việt Nam được ông thổi lên là những người yêu nước, kể cả tên sát nhân Bảy Lốp bị bắt quả tang và bị tướng Loan bắn chết, ông cũng gọi hắn là "người yêu nước". Khi viết về tụi ngụy quân cộng sản thì ông lễ phép: "một vị thiếu tướng làm việc ở cục tác chiến."(78). Viết về Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, thì ông hạ bút: "Từ hồi năm 1975, tôi gặp hơn 40 viên tướng Sài-gòn đi cải tạo."(79) Ông hãy lớn tiếng đọc hai câu của ông mà chúng tôi trích dẫn bên trên xem có bôi đen, tô hồng và công bằng không? Đấy là một thí dụ nhỏ để giúp ông thấy được rằng "ông viết dzậy mà không phải dzậy"!!!
Muốn người ta quên quá khứ, xóa bỏ hận thù để từ đó đặt cơ sở cho việc hòa giải – hòa hợp thì kẻ gây tội ác phải bằng hành động chứng minh rằng họ ân hận với tội ác đã gây ra, có biện pháp cụ thể, có lịch trình rõ ràng để sửa sai tiến tới hòa giải. Điều quan trọng trước nhất là phải thực hiện bình đẳng trong quá trình hòa giải.
Kêu gọi hòa giải với thái độ trịch thượng, ngôn ngữ kẻ cả và trục lợi như ông Bùi Tín đã viết trong hai cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật", mà chúng tôi đã trích dẫn, thì chỉ tốn thì giờ, phí giấy mực, rồi cũng lại "công dã tràng" mà thôi!


Phần: 7 - 8 - 9 
Bùi Tín và những tên đặc công đỏ 
 
Đọc xong hai cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" của ông, chúng tôi đã nói ở những dòng đầu của bài viết này, rằng chúng tôi thất vọng vì tưởng ông mang lại những tín hiệu tốt lành. Chúng tôi chỉ phát hiện ở ông một nhà thuyết khách với những lập luận mơ hồ và những đề nghị càng mơ hồ hơn.
Sau khi kể một loạt chuyện trong xã hội thực dân đỏ, mà những chuyện đó đại bộ phận nhân dân - nhất là nhân dân ở miền Bắc Việt Nam - đều đã biết từ rất lâu để cho ra đời các tiếu lâm thời đại, thơ ghế đá, các cách viết rồi "lách", cho ra đời những truyện mang tính hai mặt, thoát khỏi sự kiểm soát của lũ chó gác cửa "lâu đài văn nghệ", để công khai trên chính các phương tiện thông tin của tập đoàn Việt gian cộng sản tiếm quyền; và, nhân dân lao động gồm công nhân, nông dân, xã viên tiểu thủ công, nhân viên cơ quan bị xếp loại "phó thường dân", đã tự phát lãn công, phá hoại sản xuất, làm cho tập đoàn Việt gian công sản lúc nào cũng la lối: "Vấn đề ai thắng ai vẫn cần được đặt ra!"; ông mới lật mấy lá bài tủ của ông (hoặc của cấp trên giao nhiệm vụ cho ông). Đó là:
1- Cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản xâm lược hãy quên cái chuyện xâm lăng, giết người, cướp của đi. Đó là quá khứ rồi. Và đừng hận thù nữa. Phải thấy trên thực tế, tập đoàn Việt gian cộng sản đã nắm quyền cai trị cả nước; là thành viên của Liên hiệp quốc, được quốc tế công nhận. Nêu: "yêu sách những người cộng sản phải ra đi không điều kiện, đảng cộng sản phải rút lui tức khắc mang tính chất ảo tưởng và trịch thượng.”(81)
2- Chỉ còn một biện pháp để "Việt Nam sẽ tiến trên đường dân chủ" là đấu tranh chính trị.
hải ngoại, ông gợi ý cho hướng hoạt động chính trị của cộng đồng là:
"Nên lập nên những tổ chức thiết thực hơn, mở ra các cuộc vận động quyên góp tiền của theo các hướng:
- Lập quỹ cứu giúp trẻ em bị suy dinh dưỡng nặng (ước chừng 2 triệu em từ sơ sinh đến 6 tuổi - Trẻ em trong nước từ 15 năm nay sanh ra nhẹ hơn trước trung bình 200 gram và ngắn hơn 2 xăng-ti-mét là một nguy cơ cho nòi giống).

- Lập quỹ hỗ trợ thương binh vừa và nặng của các bên trong cuộc chiến, không phân biệt thuộc bên nào (số này ước tính lên đến 300.000 người). Hiện cuộc sống của số bà con này vô cùng bi đát.

- Lập quỹ khuyến học, cấp học bỗng cho học sinh giỏi ở trong nước và ra các trường đại học ngoài nước (mỗi năm khởi đầu chừng 200 em, sau sẽ nâng lên 800, rồi 1000 đến 2000).

- Lập quỹ bảo tồn các di tích văn hóa (ngoài khu Đại Nội và các lăng tẩm ở Huế được Unesco hỗ trợ, có chừng 250 di tích văn hóa có ý nghĩa cần bảo tồn, trùng tu và duy trì, gồm các đền chùa lớn như vùng Hoa Lư (Ninh-bình), khu Đại Nội Thăng Long từ đời Lý (nay ở trong khu vực Bộ quốc phòng) cho đến các mộ của các danh nhân như Nguyễn Du, Đặng Trần Côn, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Đình Chiểu.


Các quỹ này có thể đặt tên là Quỹ tình thương số 1 đến số 4.
Không lo rằng tiền quyên góp sẽ vào túi tham nhũng vì các Quỹ ấy đều có cơ quan quản trị đặt đại diện ở trong nước cùng điều phối tận cơ sở. Chắc chắn nếu thực phẩm, sinh tố, sữa, xe đẩy các loại cho thương binh được phân phát cùng với các học bỗng được cấp, các di tích được bảo tồn do công sức của cộng đồng thì thanh thế của cộng đồng sẽ được phát huy mạnh mẽ ở trong nước. Nó sẽ có tác dụng bằng hàng trăm bài diễn văn và hô hào, bằng hàng trăm nghị quyết. Và lúc ấy những bài diễn văn và nghị quyết chắc sẽ gần hơn với cuộc sống ở trong nước, đi vào lòng người nhanh và sâu.


Tôi nghĩ hiện nay đã là hơi chậm, nhưng vẫn còn là thời cơ để làm những việc thiết thực. Đó là việc thiện, việc nghĩa, cũng là việc làm rất chính trị, hợp ý bà con ta ở ngoài nước, hợp long bà con ở trong nước, rất thực tế nhằm hỗ trợ cho phong trào dân chủ ở trong nước.
Khi tình thương đã thấm được trong và ngoài nước, cộng đồng sẽ có đủ sáng kiến: quyên góp, biểu diễn văn nghệ, dạ hội, vũ hội, triển lãm, bán huy hiệu, góp hàng tháng một buổi tiền lương, làm việc thiện nguyện để góp vào các Quỹ tình thương. Quỹ có thể đạt hàng chục cho đến hàng trăm triệu đô la, theo mức độ của tình thương được khơi động."(82)
Hai quyển "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" của ông dài gần 800 trang sách, nhưng chỉ có hơn một trang mà chúng tôi trích dẫn bên trên mới là cốt lõi mong muốn của ông - mà cũng là mong muốn của tập đoàn Việt gian cộng sản.
Nói tóm lại, ông muốn cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản, dù đã thoát khỏi nanh vuốt của thực dân đỏ hãy tự nguyện làm bò sữa cho tập đoàn Việt gian cộng sản!!!
Khi hạ bút thảo kế hoạch lập 4 loại "Quỹ tình thương" nói trên có bao giờ ông đọc lại và suy nghĩ về cái kế hoạch đó không?
Thành thật mà nói, xin ông đừng tự ái, chúng tôi nghĩ rằng ông viết "hướng hoạt động chính trị cho cộng đồng người Việt ở hải ngoại" như nêu trên trong lúc tâm thần không ổn định.
Cái cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản này phải để lại mồ mả, tài sản của nhiều đời tích lũy, họ hàng ruột thịt, quê hương làng xóm để ra đi, chấp nhận trung bình 3 người đi thì một người làm mồi cho cá cùng bao cảnh kinh hoàng còn hiển hiện trong giấc ngủ. Tới quê mới lại phải nai lưng ra cày, cố gắng thích nghi mới có đô la Mỹ gửi về giúp thân nhân.
Chắc ông và cấp trên của ông nghĩ rằng cái cộng đồng đó khi vượt biển nghe phải lời ca của quỷ biển "Si-la và Ka-ríp" nên trở thành con bò rồi sao? Cho nên ông được cử đi làm thuyết khách (kiểu Tô Tần thời Đông Chu bên Tàu) để dụ khị bò tự nguyện cho sữa?(!!!)
Nhân dân Việt Nam thường nói với nhau rằng, nói đến cộng sản là đồng nghĩa với ngu và ác. Sau những năm nếm mùi cộng sản, chúng tôi thấy cần phải đính chính lại:
Cộng sản là tụi đại lưu manh, đại bất lương. Còn nhân dân Việt Nam nói chung, nhất là miền Nam Việt Nam thì lại quá lương thiện, nên dễ bị lưu manh lừa (mà vẫn chưa chịu rút kinh nghiệm, chóng quên, chóng tha thứ). Dùng chữ ngu đối với cộng sản là hoàn toàn sai. Nếu có lợi cho chúng thì không một thủ đoạn tàn bạo, bỉ ổi nào mà chúng không dám làm. Vì thế chúng tổ chức cho - như ông đã viết -: "vợ tố chồng, con tố cha, con dâu tố bố mẹ chồng, anh chị em đấu tố nhau"(83); tổ chức vượt biên để thu vàng, bán tàu, bến bãi và giết dân.
Là đảng viên cộng sản kỳ cựu, làm sao ông chẳng thuộc lòng bài bản mà họ Hồ, học từ Lê-nin, dạy cho toàn đảng rằng: "Nếu có lợi cho cách mạng (tức Nga-xô), sẵn sàng ôm hôn kẻ thù".
Chúng chỉ tin ở bạo lực, cho nên muốn trừng trị cộng sản thì phải tước công cụ bạo lực của chúng hay nói một cách khác là vô hiệu hóa công cụ chuyên chính (tức lính, công an và tòa án), chứ không phải là lập 4 cái Quỹ "tình thương" như nhà thuyết khách cộng sản Bùi Tín xúi dại cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tự nguyện làm bò sữa, tự tay vắt sữa mình dâng cho tập đoàn thực dân đỏ!!!
Ông khuyên những người Việt tỵ nạn cộng sản nên góp mỗi tháng một ngày lương cho 4 cái Quỹ gọi là "tình thương đó". Và, ông cũng nêu đối tượng nhận tiền của Quỹ "tình thương" gồm cả thương binh vừa và nặng của lực lượng vũ trang thực dân đỏ!(?)
Ông quên thực hay cố tình giả vờ quên cái số phận của thương phế binh QLVNCH còn ở trong nước. Họ vì ai mà bị tàn phế? Họ có vượt vĩ tuyến 17 ra phía Bắc đâu! Họ chiến đấu bảo vệ nước Việt Nam Cộng Hòa, là mảnh đất được qui định qua hiệp định Genève 1954 về Việt Nam. Cái hiệp định đó ra đời cũng từ tham vọng làm tay sai cho Nga-xô và Tàu cộng của tập đoàn Hồ chí Minh. Và, cũng chính đại diện của tập đoàn Hồ chí Minh và đại diện Nga-xô, Tàu cộng cùng long trọng ký kết xác nhận sự phân chia đó.
Thương phế binh QLVNCH là nạn nhân của cuộc xâm lược đỏ. Tụi xâm lược đã đàn áp và phân biệt đối xử không chỉ bản thân thương phế binh QLVNCH mà lây sang cả con cái, cha mẹ, họ hàng. Mồ mả của quân, cán, chính VNCH bị tụi xâm lược san bằng - chính ông cũng thừa nhận.
Cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản là đồng bào, đồng hương, đồng đội, là kẻ chịu ơn của thương phế binh VNCH, cho đến tận giờ phút này (2003) cũng chưa trả được hàm ơn đó là bao. Bây giờ ông lại yêu sách người Việt tỵ nạn cộng sản làm cái việc như của tội phạm để bồi thường chiến tranh. Tài sản nhiều đời tích lũy phải để lại cho những tên xâm lược mạnh khỏe; bây giờ lại lú lẫn hay sao mà nhịn ăn, nhịn mặc, còng lưng cày để bù trì cho kẻ xâm lược bị què cụt không đủ sức tranh giành chiến lợi phẩm? Bọn họ đã có chính sách ưu đãi, ưu tiên, có lương bỗng, có đoàn thể của tụi xâm lược đỏ giải quyết. Nếu bị bạc đãi, thiếu thốn thì càng tốt, vì như thế sẽ giúp họ mở mắt nhận diện được kẻ thù chung của nhân dân Việt Nam là tập đoàn Việt gian cộng sản. Từ đó trong họ, ai là đảng viên thì hãy trả lại thẻ đảng, hãy hô hào con cháu, họ hàng, đồng hương, đồng đội để ai ở trong đảng thì xin bỏ đảng; ai chưa nhập đảng thì tẩy chay không nhập đảng v.v… Chính họ cùng với đồng đội trong tổ chức cựu chiến binh, cùng với nông dân bị mất đất, công nhân bị mất việc hoặc bị bóc lột tàn bạo và tiểu thương, dân nghèo thành thị, học sinh, sinh viên. Mới có điều kiện và đủ sức đấu tranh bất bạo động làm tan rã hàng ngũ đảng cộng sản, giác ngộ lực lượng vũ trang quay về "trung với nước, hiếu với dân" như tôn chỉ ban đầu; quyết không làm công cụ của tập đoàn Việt gian cộng sản chóp bu, phản bội nhân dân, phản bội tổ quốc và sẽ phản bội lại chính tương lai bản thân và của các thế hệ con cháu.
Nếu thương phế binh cộng sản thấm thía cả cuộc đời bị tập đoàn Hồ chí Minh lừa dối để mất cả tuổi đời, hạnh phúc, máu thịt thì họ dễ dàng lấy hình ảnh bản thân làm tấm gương kêu gọi đồng đội trong Hội cựu chiến binh, đồng đội đang tại ngũ tẩy chay đảng Việt gian cộng sản, kết hợp với đấu tranh đòi quyền công bằng về kinh tế, phúc lợi xã hội của các thành phần bị áp bức khác, chắc chắn cái xương sống của chế độ thực dân đỏ là quân đội, công an, tòa án sẽ sụp đổ.
Chỉ khi nào tách rời công cụ chuyên chính khỏi sự thao túng của tập đoàn Việt gian cộng sản chóp bu thì mới có thể nói đến dân chủ, tự do và công lý.
Nếu không, cuộc đấu tranh dân chủ hóa Việt Nam sẽ bị lũ cơ hội ở trong và ngoài Việt Nam coi là một "thương vụ" kiếm danh và kiếm lợi. Và, nhân dân Việt Nam, trong đó có bốn loại đối tượng mà ông Bùi Tín kêu gọi cho hưởng phần của "Quỷ tình thương" sẽ mãi mãi bị lăn trong cơn lốc của các thế lực dân chủ cuội!


Chính vì tụi Việt gian cộng sản chóp bu thao túng công cụ chuyên chính nên ngay: "Dân chủ trong Đảng cộng sản Việt Nam là con số không, ở trong xã hội cũng lại là một quả trứng lớn"(84). Và, ông còn giải thích rõ hơn, rằng: "Đây là nền dân chủ của một nhóm người, nền dân chủ của một người!"(85)
Tổ chức nào trên thế giới, chứ chẳng cứ gì ở Việt Nam, nếu lấy hệ tư tưởng cộng sản làm mục tiêu đều trở thành phản dân chủ. Hãy nhớ lại cách giải thích về "dân chủ tập trung" của Hồ cho Nông thị Trưng, đại ý: "Dân chủ là của rất quý của mỗi người. Dân chủ tập trung là các cô, các chú đưa của quý đó cho Bác giữ hộ. Bác cho vào rương và khóa lại". Thế nghĩa là Hồ thâu đoạt tất cả "dân chủ" vào cá nhân hắn quản lý "hộ". Đương nhiên, cả xã hội, chẳng ai còn "của rất quý" đó nữa!
Cho nên cái nguy hiểm thâm độc của những người "tự nhận là đấu tranh cho dân chủ" ở Việt Nam mà vẫn giương cái bẫy phản dân chủ Hồ chí Minh làm mục tiêu thì cái dân chủ đó sẽ chắc chắn được cất trong két sắt (vì Hồ giảng bài học dân chủ đó khi còn ở Cao-bằng, chưa có quyền lực), làm sao lại có thể đi tìm dân chủ bằng "chủ nghĩa Hồ chí Minh", bằng đi theo người dùng "chủ nghĩa Hồ chí Minh" dẫn đường!!!


Toa thuốc ông kê cho cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản chỉ là cách thuyết phục mọi người vô tình thành "công dân của CHXHCN Việt Nam", có nhiệm vụ đóng thuế dưới chiêu bài "qũy tình thương", một thứ thuế thu nhập (vì mỗi tháng đóng một ngày lương như ông đề nghị) chưa kể tự nguyện đóng thêm.
Tập đoàn Việt gian cộng sản tiếm quyền thống trị cả nước Việt Nam, chúng thu thuế đủ loại; chúng nhận viện trợ từ các qũy của Liên hiệp quốc; các tổ chức từ thiện trên thế giới; chúng nắm trọn mọi nguồn tài sản của nhân dân - kể cả con người lẫn đời sống tâm linh. Cho nên chúng có bổn phận và trách nhiệm phải chi cho các "qũy tình thương" mà ông nêu ra.
Nếu cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản mơ hồ về chữ "thiện" của ông (Bùi Tín), có nghĩa ngoài việc hàng năm gửi về giúp gia đình hàng trên 2 tỷ USD, nay lại đóng thuế cho tập đoàn Việt gian cộng sản dùng dập tắt những ngòi nổ có thể làm sập chế độ thực dân đỏ. Phải chăng ý ông muốn như vậy?!!!
Bốn đối tượng mà ông Bùi Tín nêu lên cho hưởng "Qũy tình thương", cùng gia đình của họ, đã, đang và vẫn sẽ là lực lượng cực kỳ quan trọng vùng lên đòi quyền sống, đó chính là cửa ngõ của dân chủ hóa đất nước.
Những người tỵ nạn cộng sản đã phải trả cái giá như thế nào để có được tự do như ngày nay. Chính họ đã "phải tự cứu mình" rồi trời, người mới giúp cho. Vì thế, bốn đối tượng mà ông (Bùi Tín) nêu lên để hưởng "Quỹ tình thương" cũng phải tự cứu mình trước. Nghĩa là phải đòi hỏi tụi cầm quyền giải quyết bằng mọi cách. Cộng đồng người Việt hải ngoại chủ yếu làm cái việc đánh động dư luận quốc tế. Có như vậy bộ mặt "giả chính nghĩa" của tập đoàn Việt gian cộng sản mới bị nhân dân thế giới và toàn dân Việt Nam cả trong và ngoài nước nhận diện được để thống nhất gây sức ép quốc tế về mọi mặt kết hợp với đấu tranh ở trong nước. Chỉ có ở cái thế bị cả trong và ngoài cùng dồn ép thì tập đoàn Việt gian cộng sản buộc phải "đổi mới" trọn vẹn để khỏi bị loại bỏ.


Còn nghe ông (Bùi Tín) mà hà hơi, tiếp sức cho chúng bằng thiết lập 4 qũy tình thương, thì thà cứ nôm na gọi cho đúng tên là "4 loại thuế đánh vào những người nhẹ dạ hoặc ngu lâu", đỡ vòng vo tam quốc!

Thí dụ cụ thể:
- Báo Lao động điện tử ngày 3-1-2002 đưa tin từ năm 1990 tập đoàn Việt gian cộng sản tỉnh Thừa Thiên đã đầu từ hơn 3 tỷ đồng để làm nhà lưu niệm cho tên tướng lê-dương Nguyễn chí Thanh.
- Báo Nhân dân điện tử ngày 3-1-2003 đưa tin bọn chúng lại duyệt một kinh phí là 4,56 tỷ đồng nữa để xây dựng tượng đài cho tên tướng lê-dương Nguyễn chí Thanh.
Ba tỷ của năm 1990 theo thời giá hiện nay, chí ít cũng trên 10 tỷ. Nghĩa là cả hai lần chúng lấy tiền của dân Thừa Thiên hàng 15 tỷ, chi riêng cho việc lưu danh tên Nguyễn chí Thanh, (tương đương 1 triệu USD). Sao không rút ở đó ra 10 ngàn đô-la chi cho mầm non của đất nước?
Thế mà, vừa qua từ Huế viết thư ra hải ngoại xin cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản 10 ngàn USD để trả lương cho hơn 100 các cô giáo dạy trẻ, nếu không các trường học phải đóng cửa!!!

Tại sao không kiến nghị cho tụi tiếm quyền; không gửi đơn cho quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc v.v… để vạch mặt tập đoàn thực dân đỏ. Nếu cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản mà giúp thì sẽ thành tiền lệ để phải giúp các nơi khác nữa, ngoài Huế. Và, sẽ giúp đến bao giờ? ở những lớp học đó cô giáo có dám dạy cho các em rằng nhà nước cộng sản đã trốn trách nhiệm, các lớp học còn tồn tại là nhờ tiền đóng góp của những người tỵ nạn cộng sản không?
Như vậy là, cái thế hệ tương lai đó lại tiếp tục bị mơ hồ về tội ác của tập đoàn Việt gian cộng sản.
Một người dù có được học hành mà không được giác ngộ quyền công dân của mình thì lớn lên cũng trở thành trí nô mà thôi! Chỉ có hại chứ chẳng ích gì cho đất nước Việt Nam!
Không được quên quá khứ. Phải ghi nhớ hận thù.
Vấn đề đặt ra là: giải quyết quá khứ và hận thù làm bài học lịch sử cho các thế hệ nối tiếp tỉnh táo trao sinh mệnh chính trị và việc quản lý đất nước vào tay những đại diện hội ứng mọi tiêu chuẩn cần thiết.
Từ "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" cho đến "Mây mù thế kỷ" ông đã có nhiều thay đổi tích cực trong suy nghĩ.
Và, trong "Một phương án đổi mới trình đồng bào cả nước", ông tuyên bố từ bỏ 9 huân chương kháng chiến, quân công, chiến công, chiến sỹ vẻ vang do đảng cộng sản Việt Nam khen thưởng. Đó lại là một bước tiến mới nữa trong nhận thức của ông về thực trạng Việt Nam từ 1945 đến nay.

Tuy nhiên, chúng tôi thấy còn nhiều điều mơ hồ, không minh bạch trong cách lập luận của ông. Chúng tôi mong muốn được làm rõ những điều đó. Vì thế, xin khép lại ở đây những ý kiến của chúng tôi về hai cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" của ông.
Trong kỳ tới, chúng tôi xin được nêu lên những nghi vấn, những chỗ còn chưa rõ ràng trong tập "Mây mù thế kỷ" của ông.